SO SÁNH TRIẾT HỌC CỦA ĐỀ-CÁC-TƠ VÀ TRIẾT HỌC CỦA PH. BÊ-CƠN

Ph. Bê-cơn (Francis Bacon, 22/01/1561 – 9/4/1626) là nhà triết học duy vật Anh, người sáng lập chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh và đồng thời là người tiên phong mở đường cho khoa học thực nghiệm tự nhiên hiện đại. C.Mác gọi ông là “ông tổ thực sự của chủ nghĩa duy vật Anh và của khoa học thực nghiệm hiện đại”. Ph. Bê-cơn thực sự để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử triết học nói riêng và lịch sử tư tưởng nói chung với phong cách tư duy mới, thể hiện bước phát triển tất yếu của tư duy con người trước những biến đổi lớn lao của thực tiễn. Nước Anh, cũng như toàn thể châu Âu ở thế kỷ XVI – XVII, diễn ra những sự thay đổi bước ngoặt trong phương thức sản xuất, dẫn đến những sự biến chuyển trong đời sống tinh thần xã hội. Các tác phẩm chính của Ph.Bê-cơn là: - Khái lược về đạo đức và chính trị (1579) - Đại phục hồi các khoa học (1605) - Công cụ mới (1620) - Lịch sử sự sống và cái chất (1620) R.Đê-các-tơ (1596 – 1650) đã được các nhà tư tưởng phương tây xác định rằng R.Đề-các-tơ đã khai sinh ra một nền triết học mới mà I.Can-tơ là người hoàn tất”. Ông được nuôi dạy trong hệ thống triết học kinh viện, ngay từ nhỏ đã được hít thở cái siêu hình học bị pha trộn của Arixtốt, song lại phải khép nép sống dưới bóng cây thập giá, do vậy, ông đã không dám (hay không biết thì đúng hơn...) thoát ra khỏi hệ tư tưởng ấy. Chính vì vậy, mặc dù những tư tưởng của ông có táo bạo đến đâu, cũng chỉ là táo bạo trong phạm vi do người xưa đặt sẵn. Ông muốn bước sang những chân trời mới, nhưng không biết đi về hướng nào, bởi phía nào cũng thấy bị chặn bởi nhưng lời dạy trong Kinh thánh. Và do vậy để bảo vệ giá trị khoa học, R.Đêcáctơ chỉ còn biết tin vào Thượng đế. Đề lý giải mọi sự thay đổi, ông viện đến nguyên tắc nhân quả - một biến thể của luật đồng nhất. Để tìm nguyên nhân vũ trụ, ông đưa ra những ý niệm về vô hạn. Như vậy, có thể nói, triết học của R.Đêcáctơ vừa là siêu hình học, vừa là vật lý học. Những lập luận có tính xác thực và khoa học của ông luôn pha lẫn với sự diễn dịch trừu tượng. Vì thế đã có người coi hệ thống triết học của ông là hệ thống đứng giữa ngã ba đường. Công lao vĩ đại của R. Đêcáctơ đặt ra hàng loạt vấn đề lý luận đối với sự phát triển của triết học và khoa học sau này đó là điều không thể phủ nhận. Ông mãi xứng đáng với tư cách là người "đã tạo ra một cuộc cách mạng trong lịch sử tư tưởng triết học”, Tây Âu Cận đại. Các tác phẩm chính của R.Đề-các-tơ là: - Các quy tắc chỉ đạo lý tính (1630) - Thế giới hay là Tiểu luận về thế giới (1633) - Khúc xạ học (1637) - Sao băng (1637) - Luận về phương pháp (1637) - Các nguyên lý của triết học (1644) - Về trạng thái đau khổ của tâm hồn (1649) Trong nền triết học Tây Âu thời kỳ Cận đại có thể thấy Ph.Bê-cơn và R.Đề-các-tơ là hai đại biểu có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển của khoa học cũng như của triết học. Tuy nhiên, sự ảnh hưởng, cũng như trong từng lĩnh vực cụ thể, quan điểm của các ông cũng có những điểm tương đồng và khác biệt nhất định. Những sự tương đồng và khác biệt giữa hai ông thể hiện trên những vấn đề cơ bản sau: Vấn đề thứ nhất là quan niệm của hai ông về vai trò, nhiệm vụ của khoa học và của triết học: Là các nhà triết học thời kỳ Cận đại, đại diện cho giai cấp tư sản đang lên, đã đứng vững tấn công vào quý tộc phong kiến. Đều muốn phát triển đất nước theo con đường tư bản chủ nghĩa. Chính vì thế những quan điểm của các ông đi đúng theo con đường phát triển của lịch sử. Tư tưởng mang tính hợp quy luật, hợp thời. Triết học, theo hai ông, bao hàm hai nghĩa: theo nghĩa rộng đó là toàn bộ tri thức của con người, theo nghĩa hẹp đó là Siêu hình học. Hai ông đã rất đề cao vai trò của triết học, coi triết học là tiêu chí để phân biệt các dân tộc là văn minh hay kém phát triển. Mặt khác, hai ông cũng đề cao thực tiễn, chống lại triết học kinh viện. Các ông cho rằng phải hướng triết học đến thực tiễn, giải quyết các vấn đề thực tiễn. Vạch ra con đường phát triển cho Anh và Pháp nói riêng, Tây Âu nói chung. Chính hai ông đã tạo ra một cuộc cách mạng trong lịch sử triết học phương Tây. Trong cuộc cách mạng đó, hai ông đã dùng khoa học tấn công vào triết học kinh viện. Bê-cơn – dùng Khoa học thực nghiệm (chủ nghĩa duy nghiệm); Đề-các-tơ dùng khoa học lý thuyết (chủ nghĩa duy lý). Theo các ông phải dùng khoa học để thúc đẩy sự phát triển của sản xuất, của kinh tế, để chống lại những giáo lý của nhà thờ. Bên cạnh đó, hai ông đề cao phương pháp luận của triết học. Triết học có vai trò đưa ra phương pháp luận cho các khoa học khác. Nhiệm vụ của triết học là phải xây dựng các quy tắc cơ bản cung cấp cơ sở khoa học cho các khoa học khác khám phá chân lý, các quy luật của tự nhiên. Giúp con người làm chủ và thống trị đối với tự nhiên. (Khác với quan điểm của phương Đông trong mối quan hệ với tự nhiên). Vấn đề thứ hai là về bản thể luận – hay việc giải thích bản chất của thế giới cũng như về sự vận động của thế giới - hai ông cũng có những điểm giống và khác nhau: - Về cơ bản hai ông giải thích thế giới được cấu thành bởi các thực thể khác nhau: Ph.Bê-cơn đã xây dựng bức tranh về thế giới trên nền tảng vật chất, từ sự kế thừa tư tưởng của các triết gia cổ đại Hy Lạp như Đê-mô-crít, Hê-ra-cơ-lít, A-na-xa-go… và các nhà triết học duy vật Phục hưng tiêu biểu như Bru-nô, Lê-ô-na đờ Vin-ci… Thế giới này dù có muôn màu muôn vẻ đến đâu thì cũng chỉ là thế giới của “những sự vật hoàn toàn chìm đắm trong vật chất và luôn biến đổi”. Ông kế thừa và phê phán học thuyết về Bốn nguyên nhân tạo nên sự tồn tại, tính đa dạng, phong phú của thế giới của Aritxtốt (Nguyên nhân vật chất; nguyên nhân hình dạng; nguyên nhân vận động và nguyên nhân mục đích). Ông cho rằng, Aritxtốt đã tách rời hình dạng và vật chất. Với Aritxtốt vật chất đã trở thành nguyên nhân thụ động vô dịnh hình còn hình thức là nguyên nhân tích cực đi trước vật chất. Đó là con đường dẫn đến vương quốc ý niệm của Pla-tôn, đến quan niệm duy thực của thời Trung cổ xem hình thức là cái ở ngoài vật chất, đối lập với vật chất. Để khắc phục khiếm khuyết này Ph.Bê-cơn đưa ra căn cứ lý luận về hình thức như sau: Thứ nhất, hình thức là nguồn gốc bên trong của sự vật, nhờ nó mà sự vật là nó chứ không phải là cái khác. Thứ hai, hình thức là nguyên nhân để sự vật xuất hiện. Thứ ba, hình thức là một trong những thuộc tính bản chất chung của một nhóm sự vật, là quy luật vận động trong các sự vật. R. Đề-các-tơ cho rằng: Kể cả các sự vật bé nhỏ đến các hành tinh xa xôi đều được cấu tạo từ vật chất. Thế giới cấu thành từ hai thực thể: “tinh thần” - tư duy và “quảng tính” - vật chất theo nghĩa hiện đại... “Tinh thần là một thực thể mà bản chất là tư duy”. “Vật thể là một thực thể mà bản chất là quảng tính”[1]. Thực thể tinh thần bao gồm toàn bộ các ý niệm, tư tưởng, tổng số các ý thức cá nhân của con người, sự tương đồng giữa chúng. Thực thể vật chất đó là những sự vật mang tính không gian và thời gian, con người có thể cảm nhận được sự tồn tai của chúng bằng các giác quan. Hai thực thể này hoàn toàn độc lập. Chỉ riêng có chủ nghĩa người là được tạo thành từ sự kết hợp của hai thực thể. Cái chết của con người bắt đầu bằng thể xác, xác chết linh hồn bay đi. Với triết học kinh viện thì linh hồn ra đi khiến thể xác chết. Tuy nhiên, trong quan niệm về thế giới hai ông đều thể hiện lập trường dao động, nhị nguyên. Nhiều lúc quay lại với Thượng đế. Chẳng hạn, trong quan niệm của R. Đề-các-tơ: Từ Thượng đế sinh ra hai thực thể: Thực thể tinh thần (sinh ra phần hồn) và Thực thể vật chất (sinh ra phần xác). Phần hồn và phần xác này kết hợp với nhau trong con người. - Cả hai ông đều có quan niệm máy móc cơ học về vận động của thế giới, nhưng các ông đều quy các hình thức vận động về hình thức vận động cơ học. Đây là hạn chế của thời đại lịch sử, bởi cơ học của Niu-tơn đang thống trị, là điểm tựa cho Vật lý, cũng như các khoa học khác phát triển. Theo Ph.Bê-cơn, thế giới này mang tính vật chất, các sự vật có các thuộc tính đối kháng, xô đẩy và vì vậy không thể có các vật thể, thiên thể không chịu sự tác động và biến đổi lẫn nhau. Và ông cũng cho rằng “đứng im” cũng là một hình thức vận động, vận động trong nghỉ ngơi. Vì “không có sự đứng im đơn giản và tuyệt đối trong các bộ phận cũng như trong chỉnh thể”. Cái gọi là đứng im chỉ là kết quả “cân bằng các vận động”. Ông chia vận động thành 19 dạng khác nhau, nhưng sự phân chia của ông dựa trên lập trường cơ học và chủ yếu từ cảm tính chứ không dựa vào kết cấu của vật chất. Cũng với quan điểm duy vật, R.Đề-các-tơ cho rằng, vũ trụ không phải là bất biến mà là một quá trình tiến hóa mang tính quy luật… ông đã chứng minh sự sinh thành của trái đất, là quá trình diễn ra trong quá trình vận động xoáy tròn theo quy luật của cơ học. Lúc đầu thế giới này là hỗn mang, thế giới của những hạt vật chất chuyển động hỗn loạn. Do sự tương tác chúng dần dần quy tụ lại thành các đám mây xoáy tròn, tùy theo mức độ đậm đặc khác nhau mà chúng tạo nên các dòng vật chất khác nhau như thể khí, thể lỏng, thể rắn… R.Đê-các-tơ, trong tác phẩm “Các nguyên lý của triết học”, ông đã dành cả một tiết để bàn về vận động. Theo ông, vận động chỉ là sự xê dịch của một bộ phận vật chất hay của một vật thể tách khỏi mối liên hệ với vật bên cạnh. Như vậy, R.Đề-các-tơ đã hiểu vận động theo nghĩa thông thường của từ này chỉ là động cơ học. Nguyên nhân của hạn chế này là ở chỗ “R.Đề-các-tơ đã đồng nhất vật chất với không gian”[2]. Vấn đề thứ ba là nhận thức luận và phương pháp luận: - Xuất phát điểm mang tính phương pháp luận nghiên cứu triết học khác nhau: + Ph.Bê-cơn cho rằng, một trong những ảnh hưởng đến quá trình nhận thức chân lý, đó là những sai lầm vốn có trong tư duy của con người. Những sai lầm do lý tính tạo ra, Ph.Bê-cơn gọi là những “Idola” (ảo tưởng, ảo ảnh, ngẫu tượng – theo tiếng Hy Lạp cổ “Idola” là những hình ảnh bị phán ánh một cách lệch lạc). Ph.Bê-cơn đã gom lại các sai lầm và chia thành bốn ảo ảnh: ảo ảnh loài (Idola Tribus); ảo ảnh hang động (Idola Specus); ảo ảnh thị trường (Idola Fori); ảo ảnh nhà hát (Idola Theatri). Theo Ph.Bê-cơn, những ảo ảnh này là những cái vốn có sẵn trong bản chất trí tuệ của con người, lại được bổ sung thêm trong quá trình nhận thức, trong sinh lý và trong nhân cách của mỗi con người, vì vậy chúng có nguồn gốc hoàn toàn khách quan. Do vậy, khắc phục được những hạn chế khách quan này cũng là quá trình con người hoàn thiện bản thân mình. Ý nghĩa tích cực của những ảo ảnh này ở chỗ không chỉ chống lại những suy luận vô căn cứ của thần học, kinh viện mà còn đặt cơ sở xã hội cho quá trình nhận thức. Đó là tôn trọng khách quan, phê phán và không giáo điều. Một ý nghĩa không chỉ thuộc về thời kỳ Cận đại mà còn cho tất cả các thời đại. Ý nghĩa đã trở thành nguyên tắc của nhận thức. + Nếu như Ph.Bê-cơn bắt đầu nghiên cứu lý luận nhận thức bằng việc loại bỏ những “Idola” thì tương tự, R.Đề-các-tơ đòi hỏi phải tẩy rửa khỏi trí tuệ của chúng ta những ám ảnh đang ngăn cản tính linh hoạt và nhạy bén của tư duy trong sự phát triển của nó. Theo ông, những ám ảnh đó chính là những sức ỳ được cấu thành từ thời niên thiếu: Nguyên nhân đầu tiên và cơ bản sinh ra những sai lầm của chúng ta là những định kiến thời thơ ấu của chúng ta. Thứ hai, lẩn quẩn với những định kiến, không có khả năng làm chủ lý trí. Thứ ba, sự căng thẳng nhọc nhằn của trí óc. Thứ tư, là sự không chính xác của các khái niệm. Để có được những tri thức chân thực thì không chỉ giải thoát tư duy khỏi những ảo ảnh do chủ nghĩa giáo điều tạo ra mà còn phải biết phê phán niềm tin ngây thơ vào các dữ kiện trực tiếp cảm tính. Sở dĩ không nên tin tưởng tuyệt đối vào cảm tính vì theo ông cái chúng ta thu được chưa qua sự phân tích và kiểm soát của ánh sáng lý tình vì vậy có thể dẫn đến sai lầm. Xuất phát điểm mang tính phương pháp luận nghiên cứu triết học của R.Đề-các-tơ là từ “hoài nghi”, đề cao lý tính, từ đó ông cho rằng: “Tôi tư duy, vậy tôi tồn tại” (Cogito ergo sum). Hoài nghi ở đây là hoài nghi để tìm ra chân lý. Với R.Đề-các-tơ, hoài nghi không phải là kết quả cũng không phải là kết luận triết học mà hoài nghi là phương tiện để loại bỏ hoài nghi. Nó khác với những quan niệm hiểu nghi ngờ theo thói quen hàng ngày. “Cogito ergo sum” của R.Đề-các-tơ trong bối cảnh lúc bấy giờ có ý nghĩa sâu sắc, đã xem con người là trung tâm của các vấn đề triết học, lý tính, là chuẩn mực và thước đo của chân lý. Tuy vậy, nó cũng biểu hiện sự sai lầm của R.Đề-các-tơ là đã chứng minh sự tồn tại của con người bằng tư duy. Tư duy, tồn tại hoàn toàn tách biệt với chủ thể. Ông đã lẫn lộn giữa vật hiểu biết với sự hiểu biết, hay lẫn lộn vật hiểu biết với lý trí… - Về mặt phương pháp luận, hai ông tiến hành theo những cách khác nhau, đề cao những phương pháp khác nhau. Mặc dù cùng đề cao phương pháp trong quá trình nhận thức của con người, nhưng giữa hai ông lại có sự đánh giá khác nhau về vị trí của các phương pháp nghiên cứu trong nhận thức. Nếu như Ph.Bê-cơn sùng bái các phương pháp kinh nghiệm thì R.Đề-các-tơ lại đặc biệt đề cao lý tính: + Ph.Bê-cơn khi bàn về phương pháp luận đã bắt đầu từ việc rà soát những phương pháp đã được sử dụng từ trước đến nay, để từ đó có thể kế thừa và triển khai phương pháp mới. Ông cho rằng, từ trước đến nay con người chủ yếu sử dụng hai phương pháp đó là “phương pháp con nhện” (những người theo chủ nghĩa duy lý) và “phương pháp con kiến” (những người theo chủ nghĩa kinh nghiệm). Đặc trưng của “phương pháp con kiến” là chỉ biết sưu tầm, lượm lặt dữ kiện về các sự vật mà không có khả năng khái quát rút ra kết luận từ những dữ kiện đó nên chỉ dừng lại ở những tri thức vụn vặt, tản mạn về đối tượng. Điểm nổi bật của “phương pháp con nhện” là lụp chụp, hấp tấp trong khái quát, khẳng định một cách vô căn cứ về bản chất của sự vật trên các tiền đề chưa đảm bảo tính khả tín về mặt khoa học. Từ hai phương pháp này, Ph.Bê-cơn đề xuất “phương pháp con ong”. Ông coi đây là phương pháp đích thực của triết học, được đưa ra nhằm khắc phục những hạn chế của “phương pháp con kiến” và “phương pháp con nhện” để kế thừa những điểm hợp lý của hai phương pháp này và xác định đúng vai trò, vị trí của từng giai đoạn nhận thức. “Cảm tính tự nó là yếu đuối và lầm lẫn”. Còn “lý tính tự do hành động của con người, không xứng đáng được tin cậy”. Nên phải ràng buộc lý tính để không bay bổng theo ý chủ quan và cũng không thoát ly thực tế. Thực chất của “phương pháp con ong” là vậy. Về vai trò của phương pháp Ph.Bê-cơn cho rằng, “phương pháp giống như ngọn đèn soi đường cho lữ khách đi trong đêm đông”. Để mở đường cho sự phát triển của khoa học, để nắm bắt được bản chất của đối tượng nghiên cứu thì vấn đề phương pháp phải được đặt lên hàng đầu. Ph.Bê-cơn đã nhận thấy cần phải loại bỏ những quan niệm sùng bái lôgíc hình thức một cách thái quá. Theo ông, đó không phải là chìa khóa vạn năng. Ông đề xuất phương pháp quy nạp. Theo ông đó là phương pháp tối ưu để nhận thức và khám phá những bí mật của đối tượng nhận thức. Bản chất của phương pháp này là xuất phát từ những sự kiện riêng biệt sau đó tiến dần lên đi đến những nguyên lý phổ biến, khẳng định bản chất của sự vật. Tương ứng với ba giai đoạn của nhận thức, Ph.Bê-cơn đưa ra ba hình thức tương ứng với ba giai đoạn (Ph.Bê-cơn gọi là ba quá trình lập bản để đi đến xác định bản chất): Thứ nhất, tìm sự hiện hữu (hay tìm sự có mặt), khi đã xác định nguyên nhân của một hiện tượng nào đó thì hãy bắt đầu bằng việc chỉ sự hiện hữu của nó trong tự nhiên. Trên cơ sở khai thác các tài liệu của kinh nghiệm và căn cứ vào sự đồng dạng của các nguyên nhân chỉ ra tính tất yếu phải có hiện hữu của đối tượng nghiên cứu. Thứ hai, tìm sự vắng mặt (hay tìm sự khác nhau). Khi xảy ra tình trạng là đã đối chiếu nhiều nhân tố giống nhau nhưng không tìm thấy nguyên nhân của hiện tượng ta cần biết, thì phải đi đến kết luận là chúng ta đã đi chệch hướng. Thứ ba, tìm những biến đổi tương ứng, tiến hành so sánh những dữ kiện, tài liệu do kinh nghiệm mang lại trong những điều kiện khác nhau để xác định mối liên hệ nhân quả trong sự tương tác với nhau. Ba bước này là tiền đề bắt buộc của mọi sự quy nạp, sự chính xác của kết luận phụ thuộc vào những kết quả tổng hợp của ba bước này. Vì vậy, trong từng bước phải hết sức chu đáo, cẩn thận và tôn trọng khách quan. Mặc dù đề cao phương pháp quy nạp, nhưng Ph.Bê-cơn lại phủ định vai trò của phương pháp diễn dịch, ông chưa thấy được phương pháp quy nạp cũng chỉ là một con đường tiếp cận với chân lý chứ không phải là tất cả. + Một trong những vấn đề được R.Đề-các-tơ quan tâm đặc biệt quan trong hệ thống triết học của ông, đó là vấn đề phương pháp. Phương pháp của R.Đề-các-tơ được xây dựng trên nền tảng toán học, chịu ảnh hưởng của phương pháp toán học. R.Đề-các-tơ cho rằng, nhận thức của con người không thể dừng lại ở cảm tính mà phải vươn tới khả năng cao nhất của trí tuệ mà ông gọi là ánh sáng tự nhiên. Từ lập trường duy lý, R.Đề-các-tơ đưa ra một số nguyên tắc tiêu biểu cho phương pháp luận của ông là: Thứ nhất, “không chấp nhận bất cứ cái gì là chân lý trừ khi cảm nhận nó một cách tự nhiên và phải tránh hấp tấp, thành kiến. Chỉ đưa vào phán đoán của mình những gì mà trí tuệ của chúng ta thấy rõ ràng và phân minh tới mức không thể gợi lên một chút hoài nghi”. R.Đề-các-tơ xem trực giác (intuition) là điểm khởi đầu của nhận thức chân lý và cũng là khả năng nhận thức cao nhất của trí tuệ con người. Trực giác là khả năng linh cảm của tư duy, là một năng lực đặc biệt của lý tính, có thể nhanh chóng đưa ra những kết luận chính xác về tính chân thực của chân lý, của tri thức. Thứ hai, “chia mỗi sự vật phức tạp trong chứng mực có thể làm được, thành các bộ phận cấu thành nó để tiện lợi nhất trong việc nghiên cứu. Thực chất đây là nguyên tắc phân tích. Thứ ba, “đảm bảo một lối tư duy xác định, bắt đầu từ những đối tượng đơn giản nhất và dễ nhận thức nhất chuyển dần dần sang nhận thức các đối tượng phức tạp hơn”. Nguyên tắc này còn được gọi là “Luật trật tự” và đây chính là nguyên tắc R.Đề-các-tơ sử dụng khi xây dựng hệ thống triết học của mình. Trong chừng mực nào đó, đây là những tư tưởng nền móng của phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể. Thứ tư, “luôn luôn xem xét đầy đủ các thành phần và lược lại một cách tổng quát để chắc chắn không bỏ sót một dữ kiện nào trong quá trình nghiên cứu”. Như vậy, do chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa cơ giới và phương pháp toán học. R.Đề-các-tơ đã đặc biệt đề cao phương pháp diễn dịch trong nhận thức và xem là phương pháp cơ bản của triết học. R.Đề-các-tơ hiểu phương pháp là những công cụ không thể thiếu để đạt được tính phân minh rõ ràng của tri thức nhưng ông lại không hiểu thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Đó là một trong những thiếu vắng trong quan niệm của ông về phương pháp. Vấn đề thứ tư là quan niệm về con người: Quan điểm về con người của hai ông đều dựa trên sự tiếp thu quan niệm của Aritxtốt về linh hồn: lý tính, động vật, thực vật… Cả hai ông đều có quan niệm máy móc về con người, điều này có một nguyên nhân là do sinh học chưa phát triển. Mặt khác, hai ông đều cho rằng con người được cấu thành bởi linh hồn và thể xác, yếu tố gắn kết linh hồn và thể xác là Thượng đế. Tức hai ông đã thể hiện lập trường duy vật không triệt để. Con người trong triết học của Ph.Bê-cơn là sự hòa trộn của hai linh hồn “linh hồn lý tính” và “linh hồn cảm tính”. Linh hồn lý tính là khả năng kỳ diệu mà Thượng đế ban cho con người, do vậy, trong con người có bản tính thần thánh. Trong khi đó thì linh hồn cảm tính chỉ là một dạng chất lỏng pha loãng trong cơ thể, chúng tác động lên giác quan thông qua các dây thần kinh để điều khiển chức năng sống của cơ thể. Linh hồn cảm tính sẽ mất đi khi con người chết. Hai loại linh hồn này sẽ kiến tạo hai trạng thái khác nhau trong con người. Linh hồn lý tính đưa chúng ta đến sự thánh thiện, toàn mỹ. Linh hồn cảm tính là bản năng sinh vật. Còn R.Đề-các-tơ đem quan niệm duy vật máy móc vào giải quyết các hiện tượng của đời sống. Ông hình dung cơ thể của con người và của động vật như là một cỗ máy, mọi hoạt động chuyển động đều do tác động của “lửa trong tim” và được điều hành bởi “tinh vât’ – những thành phần máu tế vi và nhanh nhạy… Từ nền tảng nhị nguyên luận của siêu hình học, R.Đề-các-tơ cho rằng linh hồn là một thực thể thuần túy vì vậy dù nó có bị xáo trộn, có nghĩ về nhiều thứ thì nó cũng không bao giờ biến thành cái khác. Trong khi đó thể xác là cái được hợp nhất từ nhiều bộ phận, nó luôn biến đổi và thấp hèn hơn so với linh hồn. Tuy vậy, thể xác vẫn phải tồn tại vì thể các là phương tiện của linh hồn. Tóm lại, hai ông là những người đặt nền móng cho sự phát triển triết học, tạo ra cuộc cách mạng trong triết học. Đặc biệt là Ph. Bê-cơn (tư tưởng tạo ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu vô biên của con người) đã đưa nước Anh đến sự phát triển hùng cường. TRIẾT HỌC I.CAN-TƠ (1724 – 1804) “Tôi càng suy ngẫm nhiều thì có hai điều càng làm cho tâm hồn tôi kinh ngạc và tôn kính hơn là: bầu trời ở trên đầu tôi và quy tắc đạo đức ở trong tôi” -*- I.Can-tơ, người khởi xướng phép biện chứng tiên nghiệm và nền triết học cổ điển Đức, sinh ngày 22 tháng 4 năm 1724 là con thứ tư trong chín người con trong một gia đình thợ thủ công (làm yên ngựa) ở nước Phổ. Năm 1740 bắt đầu học đại học tại trường Đại học Tổng hợp Konigsberg, các khoa: triết học, toán học và thần học. Sau khi tốt nghiệp làm gia sư 10 năm. Năm 1755 bảo vệ luận án tiến sỹ về “Các nguyên tắc của nhận thức siêu hình học”, được phong danh hiệu phó giáo sư. Mãi 15 năm sau mới được bổ nhiệm làm giáo sư lôgíc và siêu hình học của trường Đại học Konigsberg. I.Can-tơ đảm nhiệm công việc giảng dạy đại học cho đến hết cuộc đời mình. Trên 40 năm, I.Can-tơ đã giảng dạy với bầu nhiệt huyết và cần mẫn nhiều môn học khác nhau: triết học, toán học, cơ học, vật lý học, địa chất học, nhân chủng học, thần học, lịch sử tự nhiên đại cương… Cuộc đời của I.Can-tơ là một cuộc đời bình thản của một học giả, không ra khỏi thành phố nơi mình sinh trưởng, chuyên tâm nghiên cứu và giảng dạy. Mãi 57 tuổi mới trình bày hệ thống tư tưởng độc đáo của mình trong “Phê phán lý tính thuần túy” (1781). Ông mất ngày 12 tháng 2 năm 1804, hưởng thọ 80 tuổi. Các tác phẩm chính của ông gồm có: - Lịch sử tự nhiên đại cương và thuyết bầu trời (1755) - Phê phán lý tính thuần túy (1781) - Phê phán lý tính thực tiễn (1788) - Phê phán năng lực phán đoán (1790) - I.Can-tơ, toàn tập, (1 – 9, 1901 – 194). Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu triết học thì tư tưởng của I.Can-tơ phát triển qua hai thời kỳ: Thời kỳ trước phê phán và thời kỳ phê phán. Thứ nhất, quan điểm triết học của I.Can-tơ trong thời kỳ phê phán (1746 – 1770): Thời kỳ này I.Kant nghiên cứu khoa học tự nhiên, đạt được những thành tựu to lớn. Với tư cách nhà khoa học tự nhiên, ông kế thừa vật lý học của Niu-tơn, có tác phẩm “Lịch sử của tự nhiên và học thuyết trên bầu trời”, ông trình bày sự hình thành mặt trời trên lập trường duy vật và biện chứng. Đây là học thuyết giáng một đòn mạnh mẽ vào các quan điểm duy tâm, tôn giáo. Ông phát hiện nguyên nhân của thủy triều do sức hút của mặt trăng. Ông tuyên bố: “Hãy đưa tôi vật chất, tôi sẽ chỉ rõ vũ trụ hình thành từ vật chất như thế nào”. Hệ mặt trời, trái đất của chúng ta là kết quả của quá trình phát triển vật chất lâu dài. Hệ mặt trời không phải là vĩnh hằng… Thứ hai, quan điểm triết học của I.Can-tơ thời kỳ phê phán (1770) Thực ra, không phải chỉ vì các tác phẩm cơ bản của I.Can-tơ ở giai đoạn thứ hai trong cuộc đời sáng tạo của ông có tựa đề là "phê phán" mà giai đoạn này được gọi là giai đoạn phê phán. (Đây là điểm chưa thật chính xác mà một số tài liệu viết về I.Can-tơ hiện vẫn còn lý giải như thế). Vấn đề là ở chỗ, triết học I.Can-tơ mang tinh thần phê phán hết sức rõ rệt. I.Can-tơ đã phê phán một cách trực diện và không thương tiếc toàn bộ "linh hồn" của triết học tiền bối, ông đề ra nhiệm vụ là nghiên cứu lại toàn bộ các vấn đề triết học trước đây trên tinh thần phê phán. Ông đã đạt được thành tựu to lớn, ông viết các tác phẩm: “Phê phán lý tính thuần túy” (1781)- Nhận thức luận “Phê phán lý tính thực tiễn” (1788) – Đạo đức học “Phê phán năng lực phán đoán” (1790) – Những vấn đề về thẩm mỹ học và mục đích luận. “Nhân học từ góc độ thực tiễn” (1798) – Trình bày vấn đề con người. Theo I.Can-tơ, các triết gia từ xưa đến nay hình như quên mất vấn đề quan trọng nhất là con người. Vì vậy, I.Can-tơ đặt nhiệm vụ hàng đầu cho mình là phải xác định bản chất con người trên tinh thần nghiêm túc, đúng mức của khoa hcoj về con người. Điều này quy định các vấn đề triết học phải tập trung vào giải quyết những vấn đề của đời sống và hoạt động thực tiễn của con người. Triết học phải đem lại cho con người một cơ sở và nền tảng thế giới quan mới, chỉ rõ nguyên tắc cơ bản của đời sống để giúp cho con người sống đúng với nhân vị của nó. I.Can-tơ cho rằng để tìm ra bản chất đích thực của con người thì không thể dừng lại ở quan niệm của Đ.Hi-um là quy toàn bộ các vấn đề triết học vào vấn đề tâm sinh lý, dù quan niệm này ít nhiều có tính hợp lý. Quá trình nhận thức của con người phải chịu ảnh hưởng của thể trạng tâm sinh lý, nhưng các yếu tố xã hội cũng giữ vai trò không nhỏ đối với việc hình thành nhân cách. Vì thế con người phải được nghiên cứu từ nhiều trắc diện chứ không đơn thuần dừng lại ở hoạt động nhận thức. Con người phải là chủ thể hoạt động. Vì sự thông thái nói chung chủ yếu thể hiện trong hành động hơn là trong trí thức. Như vậy, nhiệm vụ của triết học là đi xác định biện chứng của con người. Điều này chỉ có thể được thực thi khi triết học giải đáp được các vấn đề lớn sau: - Tôi có thể biết được cái gì? - Tôi cần phải làm gì? - Tôi có thể hi vọng cái gì? Những vấn đề này là khái quát những điều mà trong cuộc sống hàng ngày mọi người đều quan tâm. Đó chính là các khía cạnh cơ bản của mối quan hệ giữa con người với thế giới. Các giải đáp từ ba vấn đề này, hội tụ lại, chính là lời giải đáp cho câu hỏi lớn “Con người là gì?”. “Tôi có thể biết gì?” được I.Can-tơ giải đáp tỉ mỉ trong tác phẩm “Phê phán lý tính thuần túy” (1781) và chính là triết học lý luận của ông. Vấn đề thứ hai “Tôi phải làm gì?” – Triết học thực tiễn được ông trình bày trong “Phê phán lý tính thực tiễn” (1788). Với câu hỏi thứ ba: Tôi có thể hy vọng vào cái gì? (phần mỹ học), là vấn đề bao hàm cả lý luận và thực tiễn, được I.Can-tơ đề cập ở phần sau của “Phê phán lý tính thực tiễn” (1788) và “Phê phán năng lực phán đoán” (1790). Mục đích xuyên suốt là tạo dựng cho con người những cái nhìn mới về thế giới, về bản thân mình vì thế triết học của I.Can-tơ đã chan chứa tinh thần nhân đạo thể hiện những ước vọng cao cả mà trong kiếp làm người ai cũng mong muốn có được, đạt được hạnh phúc. Những tư tưởng cơ bản của triết học lý luận: Với I.Can-tơ, mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới chỉ tồn tại dưới dạng đơn nhất và cá biệt. Điều này dẫn đến mâu thuẫn trong quan niệm về tri thức khoa học và tri thức triết học. Để giải quyết mâu thuẫn này, ở I.Can-tơ hình thành ý đồ xây dựng nền tảng tri thức tiên nghiệm (tiên nghiêm – transcendanta – là khái niệm có nội dung đặc biệt trong nhận thức luận của I.Can-tơ: dùng để chỉ những hình thức tiên thiên [tiên thiên là những cái vốn có sẵn trong trong ý thức của con người, không phải do cảm giác và kinh nghiệm đem lại] của nhận thức. Như thời gian, không gian, tính nhân quả, các phạm trù lôgíc…). Để đạt được ý đồ đó, I.Can-tơ buộc phải thừa nhận “Vật tự nó”, và “vật tự nó” (ding an sich) là không thể nhận thức được. “Vật tự nó” được hiểu là: 1) Những gì thuộc về lĩnh vực hiện tượng, mà con người chưa nhận thức được; 2) Đó là bản chất của mọi vật khách quan tồn tại bên ngoài con người, thuộc về lĩnh vực siêu nghiệm mà về nguyên tắc con người không thể nhận thức được; 3) Là những lý tưởng chuẩn mực của mọi sự hoàn hảo tuyệt đối mà con người không thể đạt tới được. Đó là đối tượng của niềm tin, của tín ngưỡng mà nhân loại hằng mơ ước: Chúa, sự bất diệt của linh hồn và tự do. “Vật tự nó” đã tạo ra sự khác biệt giữa I.Can-tơ và các nhà triết học trước đây trong quan niệm về đối tượng của triết học. Triết học lý luận của I.Can-tơ không phải nghiên cứu giới tự nhiên mà là nghiên cứu hoạt động nhận thức của con người với mục đích là xác lập các quy luật, giới hạn lý tính của con người. Triết học hiểu theo nghĩa đó đã trở thành lý luận về chủ thể. Ông cho rằng, con người chỉ có thể nhận thức được các hình ảnh, hiện tượng cảm tính chứ không thể nhận thức được “vật tự nó”. Ông đã phạm sai lầm khi tách rời sự hiểu biết của con người về sự vật với bản chất đích thực của sự vật. Như vậy, triết học chỉ còn là sự trình bày về hoạt động nhận thức của con người với tư cách là một chủ thể trong giới hạn hiện tượng luận chứ không phải nghiên cứu, tìm hiểu quá trình nhận thức của con người trong việc khám phá ra bản chất đích thực của thế giới khách quan. Trong quan niệm về không gian, thời gian, ông xem không gian hình thành bên ngoài, thời gian hình thành bên trong của kinh nghiệm cảm tính. Chúng thuộc về lĩnh vực hiện tượng, là những cái thuộc về lĩnh vực chủ quan của ý thức con người. Nghiên cứu về nhận thức không thể dừng lại ở việc phân tích khả năng cảm tính mà phải khảo sát cả trí tuệ và tư duy của con người… và để nó (cái tri giác) chúng có thể trở thành kinh nghiệm thì tư duy phải được xây dựng trên nền tảng là các khái niệm. Tư duy sử dụng khái niệm của I.Can-tơ gọi là giác tính và với mục tiêu của nó là hình thành tri thức khách quan, và để làm được điều đó phải dựa trên một hệ thống phạm trù. Nhưng đối với I.Can-tơ, phạm trù không phải là sự phản ánh thế giới khách quan mà đó là kết quả sáng tạo của riêng giác tính (lý tính) trên tinh thần con người chỉ nhận thức được những gì do chính con người tạo ra. Các phạm trù (12 phạm trù được chia thành 4 nhóm) là những khái niệm tiên nghiệm của giác tính có tính phổ quát và tất yếu. Theo I.Can-tơ, không thể có hệ thống các phạm trù khoa học và tất yếu nếu không có tự ý thức tiên nghiệm, tự ý thức tiên nghiệm là cơ sở hoạt động cuối cùng của tri thức. Mọi suy lý, không phải là cái gì khác ngoài cách đưa tri thức tới sự thống nhất khách quan của tự ý thức. Để khắc phục những hạn chế của chủ nghĩa duy cảm và chủ nghĩa duy lý, theo I.Can-tơ là phải quy các tư liệu cảm tính đa dạng bằng sự thống nhất của khái niệm. Theo ông, sự thống nhất giữa tư duy giác tính và kinh nghiệm cảm tính trong thời gian, đó là quy tắc hình thành các hình ảnh cảm tính trên cơ sở tiếp cận các phạm trù về chúng. Các lý luận khoa học phải được xây dựng trên cơ sở sử dụng các biểu đồ chứ không phải ở các hình ảnh cảm tính trực tiếp, các biểu đồ giống như những chữ cái tạo thành ngôn ngữ tư tưởng của toàn bộ hoạt động của con người. Các luận điểm cơ bản của khoa học tự nhiên được hình thành từ đó. Theo I.Can-tơ , lý tính theo nghĩa rộng là trí tuệ nói chung, theo nghĩa hẹp là khả năng trí tuệ cao nhất của con người. Tuy nhiên, để vươn tới tri thức tuyệt đối, lý tính sẽ phải đối mặt với những Ăng-ti-nô-mi (mâu thuẫn) bởi khả năng của con người không cho phép thực hiện được điều này. Những Ăng-ti-nô-mi, chúng là những mâu thuẫn không thể khắc phục được có gốc rễ ngay trong bản chất lý tính của con người chứ không phải lỗi về mặt lôgíc. Các vấn đề được đề cập trong các Ăng-ti-nô-mi là sự khái quát những đề tài cơ bản mà các triết gia từ trước đến nay thường hay đề cập chứ không phải là một sự ngẫu nhiên. Những chính đề thể hiện tư tưởng duy tâm và quyết định luận. Tinh thần duy vật và vô định luận thì được thể hiện bằng các luận điểm trong các phản đề. Vì vậy, chúng là những Ăng-ti-nô-mi mà tất cả các trào lưu triết học từ trước đến nay đều vướng phải… Thông qua các quan niệm về Ăng-ti-nô-mi và cách giải quyết chúng, I.Can-tơ đã chứng tỏ sự nhất quán là “Vật tự nó” không thể nhận thức được. Đó là nghịch lý khách quan mà con người phải thừa nhận. Vì vậy trong triết học không phải là học thuyết về “vật tự nó” mà là hiện tượng luận và khách quan mà nhận xét thì trong quan niệm của I.Can-tơ về các Ăng-ti-nô-mi cũng có nhiều điểm tích cực. I.Can-tơ đã cố gắng gom lại những luận đề về tư duy đối lập nhau trên một lập trường thống nhất, chỉ rõ những vấn đề chưa được khép lại trong các cuộc tranh luận về biện chứng của tư duy, khẳng định những nghịch lý của quá trình nhận thức. Và như thế là góp phần đề cao vận động biện chứng của tư duy. Những điểm cơ bản của triết học thực tiễn: Triết học thực tiễn nghiên cứu các nguyên lý hoạt động thực tiễn của con người để giải đáp câu hỏi “Tôi cần phải làm gì?” Nếu toàn bộ triết học phê phán là một chỉnh thể thì triết học thực tiễn là mặt đối lập với mặt triết học lý luận. Thực tiễn theo nghĩa hẹp là các hoạt động đạo đức, theo nghĩa rộng là toàn bộ các hoạt động chính trị, văn hóa, pháp quyền… của con người… Theo I.Can-tơ, các nguyên lý và chuẩn mực của đạo đức chỉ tìm thấy cội nguồn của chúng ở lý tính. Khi xây dựng quan điểm đạo đức học của mình ông đã đứng trên lập trường duy lý. Nguyên tắc cơ bản của đạo đức là tuân theo mệnh lệnh tuyệt đối và mệnh lệnh tuyệt đối đòi hỏi hoạt động của con người phải tuân theo cac nguyên tắc: 1) Mỗi người có quyền và phải hành động theo ý muốn và trong điều kiện sao cho để ai cũng hành động được như thế. 2) Mỗi người có quyền và phải cho phép người khác có đượcquyền như thế và tạo điều kiện để họ thực hiện quyền ấy. 3) Mỗi người có quyền và phải ngăn chặn người khác hành động trái với mệnh lệnh tuyệt đối. Mệnh lệnh tuyệt đối là nghĩa vụ của mỗi công dân đối với xã hội vì thế nó là đạo đức chung cho mọi người. Phạm trù trung tâm trong đạo đức học của I.Can-tơ là “tự do”. Tự do được hiểu theo ba góc độ: 1) Là khả năng tiên nghiệm đặc biệt cho phép giác tính hoạt động độc lập với các quy luật tất yếu của tự nhiên trong khuôn khổ hiện tượng luận. 2) Tồn tại tương đối trong giới hạn hiện tượng luận, ở đó mọi cái đều diễn ra một cách tất yếu. 3) Là cái thuộc về thế giới “Vật tự nó” và thế giới này là thế giới tự do. Con người phải sống với hai thế giới: thế giới hiện tượng luận và thế giới “vật tự nó”. Với thế giới hiện tượng luận nơi mà mọi cái đều phải tuân theo quy luật tất định thì tự do của con người chỉ được giới hạn trong khuôn khổ của giác tính[3]. Với thế giới “vật tự nó” con người hoàn toàn tự do. Theo I.Can-tơ, tự do, sự bất diệt của linh hồn và chính đó là những lý tưởng tuyệt hảo mà con người hướng tới trong hoạt động của mình. Vì vậy, đó cũng là niềm tin giúp cho con người thực hiện các quy tắc đạo đức. Như vậy, đạo đức học của I.Can-tơ bên cạnh những luận điểm mang tính không tưởng như phi lịch sử, phi giai cấp, thiếu cơ sở hiện thực thì vẫn thấm đượm tinh thần nhân văn cao cả, phản ánh khát vọng của những lực lượng tiến bộ lúc bấy giờ là xóa bỏ gông cùm của phong kiến hà khắc để xây dựng một xã hội mới mà xã hội đó có thể đem lại tự do cho cá nhân nhiều hơn. Một quan điểm quan trong nữa trong triết học thực tiễn là quan điểm về lịch sử. Theo I.Can-tơ, lịch sử là quá trình con người thông qua hoạt động thực tiễn của mình đề phát triển khả năng và bản chất và đó cũng là lĩnh vực để con người thực hiện mục đích, lý tưởng, đạo đức, vì thế lịch sử là phương thức tồn tại của con người… Lịch sử vận động theo quy luật nội tại và tất yếu của nó. Quan điểm lịch sử của I.Can-tơ trong chừng mực nào đó đã thể hiện tư tưởng biện chứng về xã hội. Do vậy, sự xung đột xảy ra giữa các giai tầng trong xã hội phải được xem là biểu hiện của quy luật nội tại của lịch sử. Từ quan điểm lịch sử như vậy, I.Can-tơ cho rằng, nhà nước ra đời là kết quả của mâu thuẫn nội tại trong sự phát triển của xã hội. Là sự liên kết mọi người trong khuôn khổ pháp luật, nhằm bảo đảm bình đẳng cho mọi công dân với mục đích giải tỏa các đối kháng xã hội, đảm bảo cho sự phát triển của xã hội theo chiều hướng ngày càng hoàn thiện về lợi ích của con người. Như vậy, quan điểm về triết học lịch sử và pháp quyền của I.Can-tơ có nhiều điểm tích cự, như ông coi trình độ giải phóng con người là thước đo sự tiến bộ của lịch sử, thấy được vai trò của các đối kháng trong sự phát triển của xã hội. Tuy vậy, ông vẫn không vượt qua được giới hạn của chính mình để thấy được vai trò không thể thay thế của kinh tế cũng như những hoạt động sản xuất vật chất trong tiến trình phát triển của lịch sử. Nội dung cơ bản về Thẩm mỹ học: Thẩm mỹ học của I.Can-tơ có nhiệm vụ khắc phục trạng thái phân đôi của con người, sống ở hai thế giới đối lập nhau. Để giải quyết tình thế đó, I.Can-tơ đã phải viện dẫn đến khả năng thưởng thức và đánh giá sự vật của con người. Nghệ thuật, theo ông là hoạt động tự do của con người theo chuẩn mực của cái đẹp, đó là một trong lĩnh vực cơ bản để con người gắn liền lý luận với thực tiễn. Phạm trù trung tâm của thẩm mỹ học là cái đẹp… Cái đẹp là phạm trù không xác định, vừa mang tính phổ quát lại vừa có tính chủ quan. Và, đó là cái đẹp chủ yếu về mặt tinh thần. Con người có thể nhận thức, đánh giá, thưởng thức được cái đẹp mặc dù ở thẩm mỹ học con người cần phải bao quát được “vật tự nó”. Như vậy, cuối cùng thì triết học I.Can-tơ phải đi đến hồi kết luận để giả đáp câu hỏi lớn “Con người là gì?”. Theo I.Can-tơ “con người là mục đích cuối cùng của tự nhiên”. NHư vậy, sự hiện thân của con người trong vũ trụ khác với những sinh vật khác. Bởi lẽ, con người vừa là chủ thể, vừa là kết quả, vừa là sản phẩm và mục tiêu hoạt động của chính nó. Theo nghĩa đó con người và chỉ có con người mới hiện hữu với mục tiêu tự thân. Còn giới tự nhiên dù có hùng vĩ đến đâu đi nữa cũng chỉ là kết quả hoạt động của con người. Nói tóm lại, triết học I.Can-tơ hoàn toàn có thể được coi là điển hình cho triết học của những nét đặc thù và độc đáo. Cố nhiên, nói triết học I.Can-tơ là độc đáo thì cũng cần phải nói thêm là, khi đã ở tầm một nhà triết học của nhân loại, hầu như nhà triết học nào cũng đều có những nét đặc thù và độc đáo trong hệ thống triết thuyết của riêng mình. Tuy vậy, trong lịch sử triết học, khó có nhà triết học nào lại độc đáo và đặc thù đến như I.Can-tơ. Tính độc đáo của triết học I.Can-tơ, trước hết được thể hiện ở hệ thống tư tưởng của ông. Tuy thế, ngoài hệ thống tư tưởng với các học thuyết về "vật tự nó", về hệ thống các phạm trù logic, hệ thống các phạm trù đạo đức học, về vai trò và vị trí của nhân học, và về bản thân các phạm trù mà chính I.Can-tơ đã xây dựng nên, v.v... triết học I.Can-tơ còn độc đáo ngay cả ở cách đặt vấn đề, cách thức trình bày, và thậm chí cả ở tên gọi các tác phẩm của ông... Sự độc đáo của triết học I.Can-tơ trên thực tế đã từng khiến cho việc xếp loại, đánh giá những tư tưởng của ông trở nên đặc biệt khó khăn. Triết học của I.Can-tơ đã trở thành cơ sở lý luận của nhiều trào lưu triết học hiện đại sau này như chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa thực chứng, hiện tượng học…

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Bàn về phạm trù Thiện - ác - Hoàng Văn Thuận

Phân tích âm nhạc

Tư Tưởng mỹ học Ấn Độ phần 1