GIÁO DỤC PHẬT GIÁO CHO THẾ HỆ TRẺ HIỆN NAY - HOÀNG VĂN THUẬN
Th.S Hoàng Văn Thuận
Dẫn nhập
Thai giáo nói chung đã được ứng dụng ở Việt Nam và nhiều nước trên thế giới từ những thế kỷ trước. Cũng giống như âm nhạc, kiến thức đạo Phật không chỉ để dành cho những người có đủ nhận thức để lĩnh hội mà hơn hết, các pháp diệu vi của Phật có thể được bồi đắp cho trẻ ngay từ khi còn trong thai đến quá trình sinh ra và lớn lên. Vấn đề này đã được rất nhiều người quan tâm, từ hành giả xuất gia cho tới học giả Cư sĩ làm nghiên cứu khoa học và khoa học và Phật học.
Một số nội dung
Theo như Đạo sư Hai Lúa , chuyện tiền thai giáo là chuyện đã có từ rất lâu, là một quy trình độc đáo của Phật giáo. Cũng theo tác giả Hán Trúc “chuyện thai giáo không phải bây giờ mới có, các gia đình đế vương thời xưa không có ai là không chú trọng việc thai giáo” . Trong cuộc đời đi chữa bệnh cho mọi người Hai Lúa đã đưa ra nhận xét rằng “70% những đứa con khó dạy bảo,...đều là những đứa con đầu lòng”, vì vậy vấn đề giáo dục tiền thai giáo sẽ tạo tiền đề cho sự hình thành mọi mặt của đứa trẻ sau này. Bởi không những là một con đường giáo dục con người trên khía cạnh đạo đức mà còn là một phương pháp tu hành, tức con đường tâm linh Phật giáo. Để đi vào việc trình bày về những phương pháp giáo dục, trước tiên ta phải hiểu Tiền thai giáo như sau:
Tiền thai giáo là phương pháp giáo dục trước khi thụ thai, đây là một phương pháp mà có thể khẳng định đối với một Phật tử chân chính thì không còn quan niệm “Cha mẹ sinh con, Trời sinh tính” bởi tính cách những gì đứa trẻ đang có hiện nay chính là nhờ phương pháp giáo dục, tu hành của cha mẹ ảnh hưởng đến một đứa trẻ sau này. Đây là một phương pháp mang tính nhân văn sâu sắc của Phật giáo từ trước đến nay.
Trước hết, ảnh hưởng của cha mẹ đến đứa trẻ: cha mẹ mong muốn sinh ra một đứa con thông minh, tài giỏi, nhưng để được như vậy chúng ta phải xét đến các yếu tố gia đình, Thiền Sư Nhất Hạnh ở Làng Mai có một tác phẩm nổi tiếng đó là Đạo Phật của tuổi trẻ, ông đã trình bày phương pháp gia đình để giáo dục con cái theo tinh thần Phật học từ sứ mạng của phụ huynh và khẳng định vai trò của những “huynh trưởng” đó trong việc nuôi dạy và đã kết luận: Gia đình Phật tử là gia đình tâm linh. Dựa trên kinh nghiệm thực tiễn về tu hành chúng tôi sẽ phân tích quá trình giáo dục trẻ trên khía cạnh từ tâm linh đến thực hành đạo và đời sống cho trẻ.
Theo tiến trình tâm linh Phật giáo, cha mẹ nếu tâm lý trước thụ thai trụ tham dục nhiều hơn khi thụ thai sẽ cộng hưởng với những cõi nặng về tham dục đến đầu thai. Nên những đứa con đầu lòng của họ khi được ra đời thường mang tỉ lệ rất cao tính cách ngỗ nghịch “70% những đứa con có khó dạy bảo,...đều là những đứa con đầu lòng” do cha mẹ đã trụ ở tham dục rất nhiều, từ đứa con tiếp theo sẽ bớt đi vì lúc đó tâm lý cha mẹ đã không còn trụ dục vọng nhiều nữa. Cho nên, khi hiểu được vấn đề này, chúng ta sẽ bỏ qua câu chuyện “cha mẹ sinh con, Trời sinh tính” của ông cha ta từ ngàn xưa. Bởi Phật giáo đã giải thích cặn kẽ nguồn gốc của nó là do cha mẹ trước khi thụ thai, do tâm tham dục quá nhiều thì sẽ làm ảnh hưởng đến đứa trẻ. Trên đây là cơ sở lý luận, còn bàn về kỹ thuật Tiền thai giáo ra sao dành cho cha mẹ đứa trẻ cũng rất quan trọng. Kỹ thuật này được đưa ra và áp dụng gồm: Cha mẹ tạo nhiều phước báu, giúp đỡ người khác theo “nguyên tắc muốn có là phải cho” , gieo thiện thì được thiện, tâm vui vẻ, con người hiền lành, không nặng về vấn đề Tham dục, Sân, Si trong khi thụ thai thì sẽ cộng hưởng với những cõi giới, linh hồn cao hơn để có đứa con là người tốt.
Theo chúng tôi nếu cha mẹ là người tu hành Phật giáo và có được một trình độ tâm linh nào đó thì phải biết cách thay đổi tính tình, phải thật hiền để dựa trên định luật cộng hưởng, trong lúc thụ thai có thể nhập định luôn, tốt nhất là từ Sơ Thiền trở lên thì sẽ cộng hưởng với những thần thức cõi đó về đầu thai.
Trong vấn đề sinh con thì người mẹ được coi là mấu chốt quan trọng nhất, là người mà có thể giao hòa giữa linh hồn và các chúng hữu tình có thân xác, do đó vấn đề phước báu hoặc vấn đề người mẹ không đủ sức sinh mà khi đứa trẻ được đầu thai thì xảy ra những trường hợp đứa trẻ chết hoặc người mẹ chết khi sinh. Như chuyện Ngài Thích Ca vào thọ thai, Ngài có một người mẹ tuyệt vời, nhưng người cha lại thiên về việc nước, người cha đêm về thì bỏ vợ lại một mình, làm cho người mẹ buồn phiền, khi Ngài ra đời thì người mẹ chết sau đó, nhưng Ngài khi thành Phật đã lên cõi Đao Lợi để thuyết pháp cho mẹ của mình, đó cũng là cách thực hiện chữ Hiếu của Ngài.
Tiếp theo nữa, có thể khẳng định gia đình là cầu nối để cho ra đời một đứa trẻ thông minh, họ là những gia đình thuần thiện, sống hiền lành, hay giúp đỡ người khác, có thể họ sống trong nghèo nàn, luôn bị ức hiếp nhưng luôn được mọi người yêu thương, giúp đỡ, theo quan điểm Thiền Sư Nhất Hạnh thì gia đình cũng là gia đình tâm linh và “gia đình Phật Tử là một trong những thành trì cuối cùng mà chúng ta còn giữ được” , với một gia đình như vậy thì những linh hồn giỏi sẽ tìm ra và đầu thai vào gia đình ấy. Vai trò của người mẹ được đặt lên hàng đầu không có nghĩa là phủ nhận vai trò của người cha, người cha góp phần tạo nên đứa trẻ nên cũng phải xem xét giữa tham dục và mục đích sinh con.
Trẻ hình thành và ra đời đều do nhân quả, là tập hợp nhân quả các tiền kiếp của đứa trẻ. Do yếu tố cộng hưởng của người mẹ trong vấn đề tâm linh tức thiện và ác thì sẽ tạo nên một đứa trẻ mang tính cách thiên về hướng nào đó. Bởi vì đứa trẻ khi được thụ thai thì đã mang sẵn những nghiệp quả những kiếp trước đã tích lũy cộng với nghiệp quả của cha mẹ, cho nên về mặt thể xác là biểu hiện của những thói hư, tật xấu, thiện ác từ tiền kiếp. Vì sự chi phối nhân quả “gieo nhân nào gặt quả đấy”, cũng như Phật ngôn có nói: chính mình làm cho mình tốt và chính mình làm cho mình xấu. Theo cách lý giải trong Bách Khoa Thai giáo tập I là“ “nếu cả cha mẹ cả hai hoặc một phía mắc nhân tố di truyền tất cả hoặc một bộ phận con cái họ bị di truyền căn bệnh này” cũng chính là quy luật nhân quả của Phật giáo đã trình bày ở trên.
Nhân xét: Vai trò của tiền thai giáo là tiền đề trong sự hình thành của một đứa trẻ nó vừa là căn bản vừa là nội lực, cũng như sự hình thành đến tính cách của đứa trẻ. Suy cho cùng theo quan niệm của Phật giáo thì đó là do nhân quả của mỗi con người.
Vì tính chất trên, nên chúng ta cần có những phương pháp giáo dục lẫn tu hành thật đúng đắn để hoàn thiện con người từ các giai đoạn từ tiền thai giáo, thai giáo, và lúc đứa trẻ ra đời. Những phương pháp này vừa là kinh nghiệm các bậc học giả xưa vừa là khoa học vừa là Phật học:
Thứ nhất, phương pháp phát triển tối đa tình thương, một phương pháp phi ngôn ngữ và được đặt lên hàng đầu bởi sau quá trình tiền thai giáo thì đứa trẻ được hình thành trong người mẹ. Vì vậy, giáo dục ngay những phút bào thai hình thành bằng phương pháp phát triển tối đa tình thương cho người con, đó là dành mọi thứ tốt đẹp đều dành hết cho con. Người mẹ hãy thường xuyên nói chuyện với con bằng những lời hay như: “Mẹ thương con lắm, giờ mẹ cùng con niệm Phật nhé”, rồi hướng tâm vui vẻ đến đứa con và tác ý “con hãy mau lớn và luôn vui vẻ nhé!”. Gia đình nên tránh chuyện sân hận trong giai đoạn nhạy cảm này, bởi sự sân hận có thể là ngọn lửa đốt cháy tình thương.
Như chuyện mẹ Phật Thích Ca Mâu Ni, hoàng hậu Ma Da luôn dành hết tất cả tình thương chồng nên được Bồ Tát đầu thai là Ngài Bổn Sư của chúng ta. Vì vậy, các gia đình Phật tử hay là gia đình bình thường khác hiện nay nên ưu tiên giáo dục tối đa tình thương cho trẻ từ trong bào thai.
Bậc cha mẹ có thể cho thai nhi nghe nhạc để phát triển tình thương đó, âm nhạc là một phương tiện để giáo dục, âm nhạc tốt cho trẻ là âm nhạc phù hợp các tiêu chuẩn về đạo đức, phù hợp với các giác quan tâm linh của thai nhi để chúng có thể cảm nhận được. đây là phương pháp mang tính khoa học. Nhạc cổ điển mang phong cách như những rễ cây mọc nhẹ nhàng, chầm chậm mà vững chắc, đó, liên hệ đến sự phát triển dần dần của bào thai. Tình thương yêu được hun đúc, bồi đắp càng sớm thì sẽ tạo nên cái quan trọng đầu tiên trong mỗi gia đình đó là chữ hiếu, mở rộng ra là tình yêu thương đối với tất cả các chúng sinh, một đứa trẻ được dạy sự yêu thương theo tinh thần Phật giáo, chắc chắn rằng đứa trẻ đó sẽ tu hành và đạt được đến đích.
Thứ hai, là giáo dục Bốn không của Phật giáo và nguyên tắc “muốn có là phải cho” cho đứa trẻ khi ra đời, đó là: Không nói, không nhìn, không nghe điều ác và không tham dục. Đây là một quan điểm được rất nhiều nhà tư tưởng từ Đông sang Tây từ trước đến nay nói đến, đã xuất hiện rất lâu ở Ấn Độ, Nhật Bản,... và trong tư tưởng triết học của Nho giáo. Ở Phương Tây hình ảnh Bốn con Khỉ là See no evil (không thấy điều ác); Hear no evil (không nghe điều ác); Speak no evil (không nói điều ác) và Have no fun (không tham dục).
Chúng ta có thể thấy tư tưởng này cũng chính là tư tưởng của Phật giáo, khi mà “Bốn không” này là công thức để thành Phật, mang ý nghĩa cốt lõi là sự thanh tịnh cả bên trong lẫn cả bên ngoài.
Đứa trẻ “nhân chi sơ tính bản thiện”, trẻ hoàn toàn là mang tính thiện do chưa bị ảnh hưởng của xã hội và thiên nhiên, chỉ mang theo nhân quả. Cha mẹ có thể giáo dục con cái không nói những điều ác làm tổn hại đến người khác, phương pháp tốt nhất nên giáo dục con cái “ăn ngay nói thật”; không nghe điều ác là cha mẹ có thể hướng con đến những âm thanh vui vẻ, thiện và rộng tình thương yêu muôn loài bởi “thai nhi 4 tháng tuổi có cảm giác lạnh và thính giác” và cha mẹ và gia đình - tấm gương sáng cho con cái, bất kỳ lời ác ý nào cũng có thể kìm kẹp sự phát triển của đứa trẻ về mọi mặt; không nhìn điều ác làm cho đứa con sẽ có những hành động tốt đẹp sau khi nó lớn lên; còn không tham dục sẽ tạo tiền đề để cho đứa trẻ có lối sống bất vụ lợi, ích kỷ, biết giúp đỡ người khác. Bậc cha mẹ phải tránh tạo ra sự sân, si, tham trước mặt đứa trẻ, chuyện cãi nhau, kinh tế lời lỗ,... bởi vì đó là những lời lẽ không đẹp, trẻ có thể nhìn, nghe thấy điều ác đó.
Đây cũng là tinh thần giáo dục Phật giáo theo nguyên tắc “muốn có là phải cho” đi, cho những điều tốt đẹp sẽ nhận lại điều tốt đẹp.
Nguyên tắc “muốn có là phải cho” đi là một triết lý đầy tính nhân văn Phật giáo, tư tưởng đã xuyên suốt trong quá trình lịch sử của nó, đã được nhắc đến không chỉ trong Phật giáo mà trong văn chương, thi ca, âm nhạc,... như triết lý “hạnh phúc là cho đi” vậy. Cho nên, giáo dục cho trẻ một tinh thần “có là phải cho đi” không có toan tính, vụ lợi của người lớn mà rất tự nhiên của trẻ. Do đó, cha mẹ và mọi người phải tự mình hành động như một người chỉ đường “cho đi” dẫn dắt trẻ đi vào thực hành ở cả sinh hoạt hàng ngày, cũng như việc tu hành.
Việc giáo dục cho trẻ phương pháp Bốn không theo tinh thần Phật giáo sẽ giúp hình thành nên nhân cách, lá chắn sau này khi đứa trẻ lớn lên và tiếp xúc với môi trường xung quanh.
Thứ ba, giáo dục trẻ chữ Hiếu và Ăn ngay nói thật: Chữ hiếu Phật giáo không phải là niệm Phật, giữ Ngũ giới hay là quy y, ăn chay mà là gặp thời không có Phật về thờ cha mẹ ấy là thờ Phật . Cha mẹ dạy cho con chữ hiếu thì cha mẹ phải là người đi đầu, hiếu là một cách để phân biệt ‘CON NGƯỜI” viết hoa với loài vật, tiêu chuẩn đầu tiên của tu hành. Không chỉ Phật giáo, mà tất cả các tôn giáo – tín ngưỡng đều đề cao, như Nho giáo coi hiếu chính Nhân. Phật giáo với những tấm gương của Phật Thích Ca, Đại Hiếu Mục Kiền Liên hay của Xá Lợi Phất là một minh chứng rõ ràng. Bằng phương pháp giáo dục đúng đắn con cái sẽ hiểu được rằng, chỉ bằng việc thực hiện chữ hiếu thì con tim sẽ chạy đúng đường, nhất là con đường tu hành Phật giáo.
Ăn ngay nói thật lại là một trong những tiêu chuẩn của người tu hành Phật giáo từ trước tới nay trong Ngũ giới có giới “không nói dối”, cái cần thiết để phát triển nhân cách, đạo đức của con cái, bởi nếu trẻ hay bất kỳ ai đó nói dối sẽ tạo nên một thói quen xấu, thói quen này sẽ dẫn tới tình trạng lừa gạt người khác và tạo nên nghiệp quả và trong tu hành thì tình trạng tâm không nghe theo lời nói, tư tưởng bị loạn động, dẫn tới một đứa trẻ không thể dạy dỗ và tu hành được nữa. Vấn đề này không chỉ riêng một lĩnh vực hay một tôn giáo nào đó, mà cả khọa học nhất là đối với tâm lý học trẻ em cũng đã phân tích và khái quát lại rất rõ ràng những tai hại cảu việc không ăn ngay nói thật. Vì nói dối là nói điều ác theo cách nhìn của một người tu hành, là đứa con của Đức Phật.
Có hiếu và ăn ngay nói thật là tiêu chuẩn đầu tiên của người tu hành nếu muốn thành công và đi đến giải thoát mà chúng ta cần giáo dục cho trẻ.
Thứ tư, lựa chọn phương pháp tu hành Phật giáo đúng đắn dành cho trẻ: Ngoài những cách giáo dục ở trên chúng ta cần hướng cho trẻ một phương pháp tu hành Phật giáo đúng đắn nhất trên con đường phát triển tâm linh của chúng. Bởi trẻ chưa tiếp xúc nhiều các vấn đề gia đình, xã hội,.. nên Tâm của chúng không bị ảnh hưởng nhiều sẽ rất dễ dàng cho việc tu hành. Cho nên, khi đưa ra một phương pháp tu hành và khuyến khích chúng sẽ tạo nên những đứa trẻ vừa giỏi tâm linh vừa giỏi việc đời.
Khi đi vào thực tiễn thực hành các phương pháp tu hành hiện nay, chúng tôi nhận thấy rằng “tất cả những phương pháp nào mà không dựa trên An trú chánh niệm đằng trước mặt đều không đi đến đâu cả” , phương pháp này là của Phật giáo Tiểu Thừa, được trình bày trong Trung Bộ Kinh tập III của Đại Trưởng lão Hòa Thượng Thích Minh Châu và Đại Trưởng lão Hòa Thượng Hộ Tông trong Phép chánh định và Sưu tập pháp.
Điều kiện áp dụng là trẻ đã có nhận thức, độ tuổi thích hợp từ 7 tuổi trở lên. Phương pháp “An trú chánh niệm đằng trước mặt” dựa trên một đề mục chọn sẵn hay còn gọi là thực hiện Phép chánh định trên một đề mục, với 40 đề mục thiền định , tùy vào nghiệp quả của từng đứa trẻ - tu sĩ này mà chọn đề mục phù hợp nhất. Với trẻ nào nghiệp sát nhiều ta nên chọn phương pháp Tịnh Độ - niệm Phật quán chấm đỏ để đến gặp Ngài A – di – đà Phật, với những đứa trẻ nghiệp sát ít hơn thì cho tu Thiền với các đề mục phù hợp, sau khi thực hiện thành công thì có thể cho trẻ chuyển qua Mật Tông khi đã đạt trình độ Tứ thiền hữu sắc để chúng tập các đàn pháp như: Đàn pháp Quan Thế Âm Bồ Tát, Ngũ Phật Trí và cao nhất là Phật mẫu Chuẩn Đề. Bởi khi vào đàn pháp Quan Thế Âm thì trẻ mới hiểu thế nào là Từ; Bi; Hỉ; Xả của Ngài, còn vào Ngũ Phật Trí thì trẻ sẽ hiểu thế nào là Sắc – Không của Bát Nhã, bởi đạo Phật là đi vào thực hành không phải là lý thuyết, Ngài Thích Ca đã nói rằng: Pháp của ta là để thực hành chứ không phải đến mà tin theo “pháp của Ta là đến để thấy chứ không phải để tin” và “hãy đến thì sẽ thấy” và Ngài chủ trương “hãy tự thắp đuốc mà đi” nên là tự mình tu hành chứ không phải dựa vào tha lực hay sự xuất nhập của các cõi giới trái với Phật giáo. Cho nên, phải dạy cho trẻ hiểu rằng tu hành Phật giáo là phải “tự thắp đuốc” mà đi rồi sẽ thấy được trí tuệ của sự giải thoát. Chúng không khuyến khích phương pháp đọc kinh sách cho trẻ mà cha mẹ nên cho vào thực hành tu tập để từ đó trẻ sẽ tự hiểu các kinh sách khi chúng tu hành và đạt từ Tứ Thiền Hữu Sắc trở lên.
Sau đây, là phần tóm tắt phương pháp tu hành: Đối với pháp môn Tịnh Độ với đề mục là Niệm Phật quán chấm đỏ, nhắm mắt 100% rồi thực hiện quán chấm đỏ đằng trước mặt với khoảng cách một cách tay, qua quá trình tu tập khi chấm đỏ xuất hiện với dạng nổi 3D thì trẻ - tu sĩ sẽ thấy được đảnh đầu của Ngài A – Di – Đà Phật và có thể đi đến Nhất sanh bổn xứ , thực hiện công việc độ tử và độ sinh. Còn về Thiền, với 40 đề mục chọn săn phù hợp với nghiệp quả của từng tu sĩ – đứa trẻ này sẽ được người chỉ đường tức người Thiền sư chọn cho và tiến hành tu tập tương tự như quán chấm đỏ. Khi đã chứng đắc Tứ Thiền Hữu Sắc thì tu sĩ có quyền lựa chọn là chuyển sang Mật Tông hay là tiếp tục pháp môn của mình. Bởi, “Mật tông là được viết cho Tứ Thiền” nên không thể bước vào tu hành ngay từ đầu tiên.
Đây là phương pháp “chánh niệm” của Phật giáo đã được trình bày rất đầy đủ trong kinh sách, trong Kinh Phật cho người mới bắt đầu của Sa Môn Thích Nhật Từ cũng đã trình bày tóm tắt Bốn pháp quán niệm và Bảy cách diệt khổ đau theo “chánh niệm”. Như vậy, các phương pháp mà không dựa trên An trú chánh niệm đằng trước mặt đều không đi đến đâu cả. Hiện nay, có rất nhiều phương pháp Thiền như quán hơi thở, Thiền Làng Mai hay phương pháp hiện đang nở rộ của Nguyễn Nhân,... chúng tôi khẳng định lần nữa rằng những phương pháp Thiền định này chỉ tu hành được đến Cận Định tức ở Dục giới không thể đi đến Sơ Thiền. Do đó, phương pháp tu hành Phật giáo đúng đắn là quyền lợi của bất kỳ tu sĩ nào muốn đạt đến sự giải thoát mà muốn hướng đến cho trẻ khi bước vào con đường tu hành để không phải rơi vào trình trạng tu hành sai pháp môn rồi cuối cùng bỏ phí cả đời tu hành.
Bằng phương pháp “An trú chánh niệm đằng trước mặt” sẽ đạt được sự giải thoát Phật giáo, khi trẻ đã tu hành thành công thì trở thành một Bồ Tát trong đời lẫn đạo và có thể độ sinh và độ tử, thực hiện trọn vẹn, đầy đủ nhất chữ hiếu bằng cách độ Cửu huyền thất tổ lên Tây Phương, độ cả bố mẹ của chúng và tất cả chúng hữu tình. Khi trẻ đã có trình độ Tứ Thiền thì chúng sẽ thực hiện được vẹn toàn cả việc Đạo và Đời bởi những phước báu mang lại là rất lớn.
Tuy nhiên, trong việc tu tập phương pháp An trú chánh niệm đằng trước mặt hay phương pháp nào bất kỳ thì nên cho trẻ hiểu là việc tu tập là một thói quen tốt, đừng nên kỳ vọng vào kết quả tu tập, bởi một động tác về tâm linh nào đó cũng cần rất nhiều thời gian. Cha mẹ cần khen ngợi sự tinh tấn trong tu tập và điều chỉnh ngay khi có sự sai phạm về chữ hiếu và ăn ngay nói thật tức là trẻ nói dối. Đồng thời, nên để bé tự làm cả việc tu tập lẫn sinh hoạt hàng ngày và kể những truyện liên quan đến nhân quả và truyện Phật giáo tạo nên niềm yêu thích tu hành Phật giáo. Những điều không nên làm đó là không nên bắt trẻ tu theo ý mình cũng như hỏi nhiều về kết quả tu tập, có sự so sánh trẻ với người khác, hãy để chúng “tự thắp đuốc mà đi”.
Nhận xét chung: Trên đây là những phương pháp giáo dục, tu hành theo tinh thần Phật giáo dành cho trẻ để vừa ngày càng phát triển Phật giáo vừa là định hướng vào việc tu tập đúng đắn hiện nay, thông qua đó trẻ sẽ hiểu ra rằng Phật giáo không phải là giảng giải những giáo lý để nhìn nhận sự đúng sai, thiện ác mà là để hiểu hơn về cuộc sống này.
Thay lời kết
Trên tinh thần Phật giáo, từ quá trình Tiền thai giáo đến lúc đứa trẻ ra đời là những thời kỳ rất quan trọng để giáo dục nhân cách đạo đức cho trẻ tạo ra một tiền đề quan trọng trên con đường đạo và đời sau này. Tiền thai giáo, thai giáo và quá trình đứa trẻ ra đời đến lúc trưởng thành đều là những giai đoạn của một đời người. Dù là phương pháp giáo dục theo khoa học, tâm lý hay tôn giáo học hay các ngành khoa học khác với những phương pháp chuyên ngành khác nhau, nhưng đều nhằm mục đích duy nhất là phục vụ con người và việc con người thay đổi và cải tạo thế giới. Vì vậy, dù là phương pháp nào đi chăng nữa, yếu tố con người vẫn được đặt lên hàng đầu, đưa ra các phương pháp vừa mang tính giáo dục vừa mang trong mình một tiền đề để tu hành Phật giáo dành cho trẻ hiện nay.
Những phương pháp được nêu ở trên đi sâu vào lĩnh vực thực hành, nên nó sẽ có tác dụng rất lớn để hình thành một con người của Phật giáo nói riêng nhất là hình thành một con người có ý cho xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thích Nhất Hạnh, Đạo Phật của tuổi trẻ, Nxb. Thế giới, 2016.
2. Vương Kỳ (chủ biên), Bách khoa thai giáo tập 1, NXB Thời đại.
3. Phạm Kim Khánh (dịch), Đức Phật và Phật pháp, Nxb. Hồng Đức, 1970.
4. Tỳ Khưu Hộ Tông, Phép chánh định và sưu tập pháp, năm 1961.
5. Website: langmai.org.
6. Website: thuvienhoasen.org.
8. Tham khảo ý kiến chuyên gia, đạo sư.
Nhận xét
Đăng nhận xét