Descartes (1596-1650) và sự ra đời khuynh hướng duy lý trong triết học cận đại

Descartes (1596-1650) và sự ra đời khuynh hướng duy lý trong triết học cận đại a. Cuộc đời và tác phẩm Descartes là một trong những người sáng lập triết học cận đại, chiếm lĩnh một trong những đỉnh cao của lịch sử triết học thế giới. , được ghi vào biên niên sử khoa học như một trong những tên tuổi kiệt xuất, cha đở đầu của tri thức khoa học thế kỷ XVII. Descartes sinh ngày 31 tháng 3 năm 1596tại một thị trấn nhỏ tỉnh Tourin. Năm 1615, lúc 19 tuổi, sau khi kết thúc phổ thông trung học Descartes theo học ngành luật và y tại trường đại học của thành phố Puatie. Ba năm sau Descartes chuyển sang Há Lan học tiếp. Cũng nắm đó Descartes viết tác phẩm đầu tiên “Luận về âm nhạc”. Trong khoảng thời gian từ 1619 đến 1621 Descartes làm sĩ quan tình nguyện, nhờ đó mà được đi nhiều nơi như Đức, Ao, Hung. Từ 1622 đến 1628 Descartes sống chủ yếu tại Paris, song dành nhiều thời gian cho việc chu du, từ Thuỵ Sỹ đến Italia Đó là thời ký để lại dấu ấn sâu đậm và tốt đẹp đến sáng tạo khoa học và triết học của Descartes. Từ mùa thu năm 1628 Descartes quyết định sinh sống tại Hà Lan,, vì nhận thấy nơi đây có điều kiện nghiên cứu khoa học hơn ở Pháp. Descartes sống tại Hà Lan hơn 20 năm, trong đó có 3 lần trở về nước. Suốt đời mình Descartes chuyên tâm nghiên cứu khoa học, quên cả lập gia đình. Ong từng tuyên bố:”niềm vui cuộc sống lớn nhất của tôi là niềm vui tư tưởng trong những tìm tòi chân lý. Trong hai năm ròng (1627 - 1629) Descartes viết tác phẩm lớn “Các quy tắc hướng dẫn lý trí”. Năm 1629 Descartes ghi danh học triết. Năm 1630 ông lại ghi danh học ngành toán, và ngay lập tức bị cuốn hút vào đó. Thực ra những năm đại học Ảnh hưởng không lớn đến tư tưởng triết học của Descartes, do các bài giảng triết học tỏ ra nhàm chán, xa rời thực tiễn, mang nặng tính giáo huấn thuần tuý. Từ ác cảm đối với các tư tưởng vô bổ,, Descartes chuyển sang nghiên cứu vấn đề phương pháp và đầu tư cho khoa học. Ngay khi đến Hà Lan, Hobbes bắt tay vào viết một công trình khoa học cụthể, với tên gọi “Thế giới”. Công trình đang đến chỗ kết thúc thì Descartes nghe tin Galilei bị toà án giáo hội kết án nặng nề và trừng phạt do đã xuất bản một tác phẩm mang tính thách thức đối với thần quyền vào năm 1632 - quyển “Đối thoại về hai hệ thống cơ bản nhất của thế giới - hệ thống Ptolemei và hệ thống Copernic”. Là một tín đồ Thiên Chúa giáo, Descartes quyết định hoãn công bố tác phẩm của mình, khi xét thấy ở đó có một số nội dung gần với tư tưởng Galilei, mặc dù Hà Lan không phải là nước chịu Ảnh hưởng của Vatican. Vào năm 1637 Descrtes viết bằng tiếng Pháp tác phẩm “Luận về phương pháp”, là tài liệu có tính cương lĩnh, trong đó trình bày những vấn đề cơ bản của triết học và định hướng nghiên cứu khoa học. Đây là một tác phẩm ngắn, cô đọng, nhưng lại đươc Descartes chia ra thành 6 phần, với những vấn đề rành mạch, chẳng hạn, phần 1 - nhận thức khoa học, phần 2 - các quy tắc` cơ bản của phương pháp, phần 3 - các quy tắc đạo đức, được rút ra từ phương pháp chung, phần 4 - các vấn đề của Siêu hình học, trước hết là vấn đề tồn tại của Thượng đế và vấn đề linh hồn con người, phần 5 - các khoa học triết học khác như vật lý, sinh học, y học, phần 6 - vấn đề làm thế nào để thâm nhập sâu hơn vào cõi bí hiểm của tự nhiên, giải thích đúng nó, từ đó nâng cao vị thế con người (Xem R. DescartesTác phẩm gồm 2 tập; t. 1, Nxb “Mysl” (tư tưởng), Moscou, 1989, tr. 250, bản dịch ra tiếng Nga). Để làm sâu sắc hơn thế giới quan của mình, năm 1641 Descrtes xuất bản tại Paris cuốn “Luận về triết học thứ nhất”, viết bằng tiếng Latinh. Năm 1642 tác phẩm được tái bản tại Amsterdam. Đến năm 1647 bản tiếng Pháp ra mắt tại Paris với tên gọi khác - Những suy tư siêu hình học”. Uy tín khoa học ngày càng tăng của Descartes đã gây lo ngại cho nhà thờ. Một chiến dịch bôi nhọ Descartes được dàn dựng, quy tụ các nhà hoạt động tôn giáo, các giáo sư thần học, và cả một số nhà khoa học. Trong những năm tháng khó khăn ấy Descartes xuất bản tại Amsterdam tác phẩm “Nguyên lý triết học” bằng tiếng Latinh(1644), sau đó dịch sang tiếng Pháp (1647). Đây là tác phẩm có tính chất hệ thống hoá toàn bộ tư tưởng triết học của ông, trong đó nổi bật các vấn đề siêu hình học, phương pháp luận, vật lý học (học thuếyt về vật thể, về thế giới, về Trái đất, cùng những vấn đề được đưa vào cái gọi là “ triết học thứ hai” này) Trong khoảng thời gian từ năm 1645 đến 1648 bên cạnh hoạt động khoa học và tiếp tục nghiên cứu triết học Descartes bắt đầu chuyển hướng quan tâm sang vấn đề con người, vận dụng các nguyên lý cơ học và vật lý học vào việc giải thích cơ thể người và động vật. Tuy nhiên công trình “Mô tả cơ thể người. Sự hình thành động vật” không được ra mắt độc giả. Tháng 12 năm 1649 Descartes công bố “Những xung động của tâm hồn”, một tác phẩm mang tính chất nhân học. Chính trong thời gian này ông có mặt tại thủ đô Thuỵ Điển theo lời mời của nữ hoàng Christina. Nhờ sự giúp đỡ của Descartes Viện hàn lâm khoa học Thuỵ Điển đã ra đời. Đây cũng là chuyến đi cuối cùng của Descartes; ông bị cảm lạnh và mất vào ngày 11 tháng 2 năm 1650. Sau một thời gian di hài của Descartes được chuyển về tổ quốc. Descartes, khác với F. Bacon, hầu như không tham gia trực tiếp vào các biến cố chính trị tại quê hương, thậm chí phải sang sinh sống tại Hà Lan chỉ để chuyên tâm làm khoa học. Tuy nhiên các vấn đề thế giới quan và phương pháp luận do ông nêu ra mang đậm dấu ấn của thời đại của khám phá và phát minh, của tinh thần hoài nghi và sáng tạo, của xu hướng tái thiết lại đời sống xã hội trên cơ sở lý tính, để vượt qua trật tự xã hội phi lý. Nội dung các tác phẩm của Descartes, cũng như sự nghiệp của ông, có ý nghĩa đặc biệt đối với sự hình thành những điều kiện cho cách mạng Pháp trong tương lai. Quan điểm cách tân trong khoa học và chủ nghĩa nhân văn qua thái độ phê phán đối với thần quyền, đề cao quyền bình đẳng tự nhiên giữa người với người, đòi hỏi mở rộng không gian văn hoá cho tất cả mọi người, loại trừ thói trưởng giả trong sinh hoạt, đã giới thiệu hình Ảnh Descartes như một trong những người mở đường cho phong cách tư duy mới, trong truyền thống duy lý cổ điển phương Tây. Nói cách khác cần xem xét Descartes ở hai hình Ảnh - nhà triết học và nhà bác học. Trước khi bàn đến thế giới quan và phương pháp luận của Descartes, các nhà nghiên cứu lịch sử trếit học nhấn mạnh tính nhân văn trong tư tưởng của ông. Song, đó là thứ chủ nghĩa nhân văn nào? Chủ nghĩa nhân văn Descartes thể hiện ở sự quan tâm đến tự nhiên, qua đó đề cao khả năng và sức mạnh của con gnười. Copernic, Galilei, Paraselsus, Telesio, Patrizi, Bruno, Campanella, Kepler … là những nhà khoa ọhc và triết học tự nhiên Phục hưng, nhưng họ đã vượt qua uy quyền tư tưởng, chủ nghĩa giáo điều Kytô giáo để nêu ra quan niệm phi tạo hoá về tự nhiên, tính tự chủ của tự nhiên dưới hình thức phiếm thần và vật hoạt luận, nhấn mạnh mối liên hệ và sự tác động lẫn nhau giưa vũ trụ và con người. Thứ triết học tự nhiên kiểu đó, mặc dù còn chịu Ảnh hưởng của ma thuật và thuật giả kim, đã kích thích Descartes. Chủ nghĩa hoài nghi xã hội và chủ nghĩa nhân văn Kytô gaío Phục hưng, nhất là chủ gnhĩa hoài nghi Montaigne, cũng là cội nguồn sâu xa của tư tưởng nhân văn Descartes Chủ nghĩa hoài nghi ôn hoà với câu hỏi nổi tiếng “Que sais-je ?” (Ta biết được gì?) và chủ nghĩa tự nhiên (nhấn mạnh bản tính tự nhiên của con người, của xã hội, của tạo hoá nói chung) tác động phần nào đến tư tưởng Descartes với tính cách nhà khoa học và một tín đồ Thiên Chúa giáo. Có thể hình dung một sự kết nối tư tưởng từ Erasmus (chủ nghĩa nhân văn Kytô giáo), xuyên qua Rabelais, Montaigne đến Descartes. Nhưng Descartes là nhà triết học - nhà bác học. Ở bình diện này một lần nữa thời Phục hưng lại thể hiện vai trò gợi mở của mình đối với thời cận đại bằng cách làm sống lại hình Ảnh Euclide và Archimedes. Vào thế kỷ XVII nếu không có khoa học tự nhiên toán học hoa thì khoa học thật khó đạt được hiệu quả thực tiễn, nghĩa là từng bước trở thành lực lượng sản xuất. Về phần mình toán học hoá khoa học tự nhiên thật khó thực hiện mà không cần đến tiến bộ trong chính toán học. Descartes là người đi tiên phong trong việc xác lập toán học hiện đại, với những ký hiệu X, Y, Z mà hiện nay chúng ta không hề xa lạ. Khái niệm đại lượng biến thiên cho thấy mối quan hệ giữa con số và đại lượng trong toán học mới. Descartes - một trong những tác giả môn hình học giải tích, với sự thống nhất các đại lượng hình học và số học. Mặc dù là một tín đồ Thiên Chúa giáo, song hoạt động khoa học của Descartes khiến cho nhà thờ liệt các công trình của ông vào danh mục sách cấm đối với những người theo đạo Thiên Chúa. Tư tưởng tự do, tinh thần hoài nghi khoa học, dù không đụng chạm trực tiếp đến vương quyền, vẫn bị giới qúy tộc thân nhà vua xem như mầm họa đối với chế độ chuyên chế. Điều hiển nhiên là cách tiếp cận của Descartes về chân lý, các “quy tắc vàng” hướng dẫn lý trí do Descartes khởi xướng đã tạo nên sức hút đối với những người trẻ tuổi, vốn không chấp nhận một chiều thứ chân lý sẵn có, bất biến, tồn tại hàng trăm năm trong ý thức con người. Trước làn sóng chống đối tư tưởng cải cách, vua Louis XIV ra lệnh cấm giảng chủ nghĩa Descartes tại khắp các vùng lãnh thổ nước Pháp. Chỉ đến khi Cách mạng tư sản Pháp thành công di sản và tiến tăm Descartes mới được đặt ở vị trí danh dự. Descartes - nhà khai sáng, nhà nhân văn, trở thành biểu tượng của thời đại bùng cháy khát vọng chiến thắng của lý trí trước cái phi lý. . b. Đối tượng triết học Trong bức thư của tác giả gửi cho người dịch “Các nguyên lý triết học” ra bản tiếng Pháp Descartes nhắc lại nhiệm vụ của mình là; thứ nhất, làm sáng tỏ khái niệm triết học; thứ hai, xác định phạm vi và chức năng của tri thức triết học, vị trí của nó trong hệ thống các giá trị văn hoá của mối dân tộc, mỗi quốc gia. Với nhiệm vụ thứ nhất, Descartes nhấn mạnh ý nghĩa của thuật ngữ triết học mà người Hy Lạp để lại - Descartes viết:”Từ triết học cắt nghĩa quá trình vươn đến sự thông thái,và sự thông thái được hiểu không chỉ như sự không ngoan trong công việc, mà cả tri thức đã hoàn thiện về tất cả những gì con người có thể biết; đó là thứ tri thức hướng dẫn cuộc sống chúng ta, phục vụ cho việc bảo vệ sức khoẻ, và cả cho những phát minh trong trong tất cả các ngành nghệ thuật (arts)” (Descartes, tp. Gồm 2tập, t. 1, 1989tr. 301). Ở một chỗ khác trong bức thư đó Descartes viết:”Mọi triết học giống như một cái cây, mà rễ của nó là siêu hình học, thân là vật lý học, còn các cành xuất phát từ thân cây ấy là tất cả những khoa học khác, được quy về ba khoa học cơ bản: y học, cơ học và đạo đức. Tôi coi khoa học cuối cùng là khoa học cao nhất và hoàn thiện nhất, cái giả định tri thức đầy đủ của các khoa học khác và là nấc thang cuối cùng vươn đến sự thông thái cao nhất. . Tương tự như quả không thu hoạch từ gốc và từ thân, mà chỉ từ đoạn cuối của cành, tính hữu dụng đặc thù của triết học phụ thuộc vào các bộ phận của nó…” (Des. , t. 1, tr. 309). Quan điểm về tính thống nhất của tri thức triết học và tri thức khoa học cụ thể có lịch sử lâu dài, bắt đầu từ Aristoteles. Tuy nhiênvào thời Aristoteles khoa học chưa phát triển thành các khoa học chuyên biệt với hệ thống lý luận riêng, còn thời đại Descartes đã là thời đại của bùng nổ phát minh. Các khoa học chuyên biệt hình thành từ nhu cầu của thực tiễn xã hội, và về phần mình chúng thể hiện tính hữu dụng thực tiễn. Cơ học, y học, đạo đức chỉ là những ngành điển hình. Theo cách hiểu của Descartes, “cây tri thức” không chỉ có vài nhánh tượng trưng, hay sự sặc sỡ về sắc màu, mà cần tạo ra những quả ngọt cho con người. Ở điểm này Descartes nhất trí với Bancon về tính hữu dụng của tri thức, nhằm đối lập với tri thức kinh viện, là thứ tri thức của những nhà bác học phòng giấy, chỉ chú trọng đến tính uyên bác của thuật ngữ, của cách diễn đạt, mà không gắn liền với những nhu cầu thực tiễn. Quan điểm về tính thống nhất của tri thức cho phép tìm hiểu sâu sắc hơn liên minh giữa triết học với các khoa học khác, cả khoa học lịch sử lẫn khoa học tự nhiên, vạch ra mối liên hệ, sự tác động lẫn nhau, chế ước nhau của chúng. Trong sự thống nhất đó triết học, đúng hơn, siêu hình học, đóng vai trò nền tảng. Tuy nhiên ở cách lý giải về liên minh triết học (siêu hình học) - khoa học này giữa Descartes và Bac0n có sự khác nhau nhất định. Theo Bacon, triết học không thể phát triển, nếu không bám sát vào các thành quả của khoa học, không căn cứ vào những kết luận “cấp một”, tức cấp khoa học chuyên biệt, để từ đó một mặt điều chỉnh ngay chính cách tiếp cận của mình, mặt khác đưa ra những khái quát “cấp hai” - những khái quát vượt ra khỏi không gian của khoa học chuyên biệt, vươn đến không gian rộng hơn, gợi mở hướng đi mới cho sáng tạo khoa học, hay “thắp lên một ngọn đuốc trí tuệ” cho con người. Phương pháp luận thực nghiệm của Bacon chỉ ra sự lệ thuộc của siêu hình học vào các kết quả nghiên cứu của vật lý, thiên văn. Để đạt đến chân lý, khám phá sự vật, cần “tiếp cận sự vật”; tương tự như vậy, hiểu bản chất sự vật, cần bắt đầu từ chỗ “mô tả” và giải thích đúng sự vật, đó là chủ trương của người sáng lập chủ nghĩa kinh nghiệm duy vật Anh. Trong khi đó phương pháp luận duy lý của Descartes nêu ra yêu cầu trước tiên là nắm vững các nguyên lý siêu hình học, từ đó đi đến nắm vững các nguyên lý của vật lý học và các khoa học cụ thể khác xuất phát từ nó. Sự đối lập này chỉ có thể được khắc phục vào các thế kỷ tiếp theo. . Thượng đế chiếm vị trí đặc biệt trong siêu hình học Descartes. Là một tín đồ Thiên Chúa giáo, Descartes xem xét Thượng đế ngay trong phần đầu tiên của “Các nguyên lý triết học”, bởi lẽ, theo ông, tri thức về Thượng đế đóng vai trò quan trọng đời sống con người. Ở phần này Descartes bàn về Thượng đế ở 17 mệnh đề, tập trung vào mấy điểm chính sau: tri thức về Thượng đế là tri thức chân lý, không có gì phải hoài nghi cả; Thượng đế là thực thể hoàn thiện tối cao, biểu tượng của tri thức tuyệt đối; Thượng đế là một hiện hữu phi vật thể, vĩnh viễn; nguyên nhân của những sai lầm trong nhận thức của con người không nằm ở Thượng đế (xem Descartes, t. 1, 1989, tr. 318 - 377). Tin vào Thượng đế, theo Descartes, không hoàn toàn hạ thấp tri thức và khát vọng nhận thức của con người. Ngược lại, niềm tin trong nhiều trường hợp kích thích quá trình khám phá tự nhiên. Nếu xem Thượng đế là biểu tượng của sự hoàn thiện và của sáng tạo, thì Thượng đế cũng mang ý nghĩa là cái tuyệt đối, cái mà con người từ thế hệ này sang thế hệ khác xem như mục dích cao nhất của nhận thức. Vì thế thần luận của Descartes thể hiện như cầu phổ biến của thời đại ông. . . Bên cạnh đó, với tính cách llà một nhà khoa học, Descartes kêu gọi con người cống hiến trí tuệ và sức lực của mình cho việc hkám phá gi7ói tự nhiên, phụng sự lợi ích chung. Ong phê phán “những đầu óc thiển cận” chỉ nghiên cứu tự nhiên theo một con đường đã vạch sẵn, mà không tự tạo ra cho mình con đường mới (xem Descartes, t. 1, 1989, tr. 308). Descartes bộc bạch:”…để mục tiêu mà tôi đặt ra cho mình khi xuất bản công trình này (“các nguyên lý triết học” - ĐNT), được hiểu một cách đúng đắn, tôi mong muốn chỉ ra ở đây một trật tự, cái trật tự mà, như tôi cảm nhận, cần được những người có ý định soi sáng mình tuân thủ…. Những ai chỉ mới có được tri thức thông thường và chưa hoàn thiện…cần trước hết xác lập cho mình các quy tắc đạo đức đủ để hướng dẫn công việc thường nhật. Sau đó cũng cần nghiên cứu lôgích học, nhưng không phải thứ lôgích mà người ta đã học trong trường: lôgích ấy chỉ là một dạng phép biện chứng (lúc này Descartes, cũng như nhiều nhà triết học thế kỷ XVII, tỏ thái độ c1 cảm đối với phép biện chứng, xem nó là thứ phương tiện nguỵ tạo chân lý, giống như thép chứng minh thông thường hoặc thuật tranh biện - ĐNT), chỉ dạy cách thức truyền đạt cho người khác cái mà chúng ta đã biết và thậm chí dạy nói mà không nghĩ đến việc cái gì chúng ta còn chưa biết…Không, lôgích mà tôi nói đến là thứ lôgích dạy cách hướng dẫn lý trí một cách thoả đáng để giúp nhận thức những chân lý mà chúng ta chưa biết” (Sđd, tr. 308 - 309). Tóm lại, đối tượng của triết học, theo Descartes, là:1) siêu hình học, tìm hiểu cơ sở của nhận thức, từ giải thích các thuộc tính của Thượng đế, tính phi vật thể của linh hồn, đến giải thích các khái niệm phân minh, rõ ràng, đơn giản khác; 2)vật lý học, với việc xác định cơ sở chân lý của các vật thể vật chất, xem xét sự hình thành, phát triển vũ trụ và các hiện tượng cụ thể của nó; 3) các khoa học khác, đi sâu vào bản tính của thực vật, động vật, con người (y học, cơ học, đạo đức học). Từ bảng phân loại đối tượng trên rút ra: 1) tính thống nhất của tri thức khoa học: 2) siêu hình học là nền tảng tri thức của con người, là cơ sở phương pháp luận của các khoa học khác c. Descartes và Bacon Điểm tương đồng cơ bản về tư tưởng giữa Descartes và Bacon là cả hai ông đều thừa nhậnchân lý khách quan. Trong học thuyết về các “ngẫu tượng”, Bacon phê phán uy quyền tư tưởng như trở lực đối với sự phát triển tri thức khoa học, và khẳng định rằng “ chân lý - đứa con của thời gian, chứ không phải của uy quyền”. Trong trường hợp này, thời gian trở thành sự thẩm định tính đúng đắn (hay ngược lại) của tri thức. Descartes thì trong “Các quy tắc hướng dẫn lý trí” và bài viết ngắn “Tìm kiếm chân nhờ ánh sáng tự nhiên” nhấn mạnh sự cần thiết xác lập phương pháp khoa học, giúp con người tránh khỏi những sai lầm ngộ nhận, rơi vào tình trạng mất phương hướng hoặc thiếu tự chủ trong đánh giá vấn đề. “Để tìm kiếm chân lý về sự vật cần phải có phương pháp” - Descartes nhấn mạnh như vậy (Descartes, t. 1, 1989, tr. 85). Điểm tương đồng tiếp theo gắn với tinh thần hoài nghi và phê phán đối với tri thức kinh việc trung cổ và chủ nghĩa giáo điều trong khoa học. , đề cao vai trò của “ánh sáng tự nhiên của trí tuệ con người”, thứ ánh sáng mà nhờ nó chủ nghĩa phổ quát Kytô giáo bị loại trừ dần, thay thế nó là nhận thức luận khoa học, giúp con người phá vỡ các rào cản, các “vùng cấm” đối với tri thức. Triết học thực tiễn, hay triết học có định huớng thực tiễn, được cả Descartes lẫn Bacon xem như kết quả tất yếu của thời đại cải cách môi trường sinh hoạt khoa học; thời đại đã đưa triết học từ tầng cao của tính tư biện xuống mẢnh đất trần tục. Cả Bacon lẫn Descartes đều xem cải cách trong khoa học là điều kiện trước tiên làm lành mạnh hoá đầu óc con người, thúc đẩy tiến bộ xã hội - họ là những nhà cách mạng trong lĩnh vực tri thức, chứ không phải trong đời sống chính trị - xã hội. Huân tước Bacon từng là người đứng đầu chính phủ hoàng gia, bảo vệ nền quân chủ, bênh vực chế độ thuộc địa. Liên tưởng đến sự xâm lăng của người man di vào đế quốc La Mã, gây nên kết quả bi thảm, Bacon lo ngại những cuộc cải cách chính trị sẽ gây nên chấn động xã hội, phá vỡ cuộc sống bình yên của nhân dân. Vì thế mô hình nhà nước lý tưởng của ông về căn bản vẫn thiết kế theo hình mẫu nền quân chủ Anh (trong New Atlantis). Descartes thì hầu như tách mình ra khỏi đời sống chính trị nước Pháp. Thế nhưng, bất chấp điều đó những người đi sau vẫn xem tư tưởng của hai ông là sự báo trước những chuyển biến cách mạng ở hai nước Anh và Pháp. Sự khác nhau giữa Descartes và Bacon thể hiện ở lý luận nhận thức, cụ thể, ở cách hiểu về nguồn gốc và bản chất của tri thức, về phương pháp nhận thức. Chủ nghĩa duy lý, truyền thồng đề cao nhận thức duy lý hình thành từ rất sớm trong lịch sử, nhưng chính Decartes mới làm cho nó trở thành một trong những khuynh hướng triết học phổ biến của thế kỷ XVII. Khác với Bacon, người đề cao vai trò của kinh nghiệm, thực nghiệm, như nguồn gốc tri thức, Descartes lại thiên về quan điểm cho rằng nguồn gốc của tri thức chân thực, phân minh nằm ngay ở trí tuệ con người - một thực thể biết tư duy. Quan niệm về phương pháp của Descartes khác với Bacon ở hai điểm cơ bản: 1/ tri thức càng đạt được tính trừu tượng hóa cao, được chứng minh bằng các mệnh đề toán học và các quy tắc lôgíc càng “xa” sự vật càng đáng tin cậy, càng trở nên chân thực, vì đã loại bỏ các yếu tố ngẫu nhiên và thiếu tính tổng hợp của các dữ liêu do cảm giác đem đến; 2/ thực hiện phép diễn dịch (Deduction), nghĩa là từ một mệnh đề đã biết phân tích thành các yếu tố sử dụng các quy tắc của toán học và lôgíc học để làm sáng tỏ mệnh đề, đồng thời bằng con đường ấy, theo Decartes, chúng ta có thể khám phá ra những chân lý mới từ một số chân lý đã biết. Một cách vắn tắt có thể xem diễn dịch là qua trình đi từ cái chung phân tích ra những yêu tố riêng lẻ. Thực ra, mặc dù đề cao vai trò của lôgíc và toán học theo xu hướng toán học hóa tư duy, trực giác trí tuệ, song các loạt quy tắc hướng dẫn lý trí mà Decartes nêu ra vẫn cho thấy sự cần thiết của yếu tố quy nạp. Tính phiến diện trong cách hiểu về nguồn gốc tri thức và phương pháp nhận thức của Bacon và Hobbes được I. Kant khắc phục vào nửa sau thế kỷ XVIII tại Đức. Sự khác nhau thứ hai liên quan đến quan điểm của Bacon và Descartes về toán học trong bảng phân loại khoa học. Thực ra sự khác nhau này cũng là biểu hiện khó tránh khỏi của sự khác nhau về phương pháp. Descartes không chỉ là người mở đầu của chủ nghĩa duy lý cận đại, mà còn là một trong những người sáng lập đại số học và hình học giải tích. Bacon, ngược lại, không am hiểu nhiều về toán học, do đó xem toán học chỉ như sự bổ sung cho triết học. d. Phương pháp duy lý Vào thời cận đại vấn đề phương pháp gắn bó hữu cơ với sự tiến bộ của nhận thức khoa học. Lôgíc học truyền thống của Arixtốt không đủ sức đáp ứng những đòi hỏi của quá trình khám phá chân lý. Vì thế các nhà tư tưởng thế kỷ XVII tìm kiếm phương pháp tư duy thích hợp, nhằm giúp con người thâm nhập sâu hơn vào cõi bí hiểm của tự nhiên. Bêcơn chỉ trích thời xã hội đương thời là đã xác lập một nền quân chủ trong khoa học xoay quanh ngai vàng tri thức của Arixtốt. Ông phê phán tam đoạn luận cùng phương pháp quy nạp đơn giản, xây dựng phương pháp quy nạp khoa học, đề cao vai trò của khoa học thực nghiệm, khẳng định “chân lý là đứa con của thời gian, chứ không phải của uy quyền”. Galilê khởi xướng phương pháp thực nghiệm - toán học, còn Đềcát trong tác phẩm Những quy tắc hướng dẫn lý trí (gồm 21 quy tắc) nhấn mạnh sự cần thiết giải phóng lý trí ra khỏi nhận thức mơ hồ. Phương pháp luận của Đềcáctơ đề cao tri thức xác thực và dựa vào toán học “phổ quát” để nêu ra những quy tắc quan trọng nhất của tư duy. Trong phần 2 của Bàn về phương pháp hướng dẫn lý trí của mình một cách đúng đắn và tìm kiếm chân lý trong khoa học Dêcáctơ nêu ra 4 quy tắc cơ bản vủa nghiên cứu khoa học, còn gọi là các quy tắc vàng. Quy tắc thứ nhất - tính rõ ràng và phân minh của đối tượng Đềcáctơ nhấn mạnh:“không bao giờ thừa nhận cái mà ta cho là không phân minh rõ ràng là cái chân lý, nghĩa là phải tránh sự vội vàng và hấp tấp, chỉ xem là đối tương nghiên cứu những gì rõ ràng và phân minh đối với trí tuệ của tôi, làm sao để không còn bất kỳ hoài nghi nào” (Descartes, tác phẩm, t. 1, Nxb tư tưởng, M, 1989, bản dịch sang tiếng Nga, tr. 260). Ở một tác phẩm khác - Các quy tắc hướng dẫn trí tuệ - Đềcáctơ viết:”Việc hướng dẫn trí tuệ bằng cách làm sao để nó có thể đưa ra những phán quyết chắc chắn và xác thực về tất cả các sự vật … đó là mục đích của nghiên cứu khoa học […] Chỉ nên tìm hiểu các đối tượng mà trí tuệ của chúng ta hoàn toàn có khả năng đạt đến tri thức xác thực và đáng tin cậy về chúng” (sđd, tr. 78 - 79). Quy tắc thứ hai - phân tích đối tượng ra các yếu tố để làm rõ những nan giải cần vượt qua, những nhiệm vụ cần giải quyết, mục tiêu cần đạt tới; Quy tắc thứ ba - tính trình tự của tư duy. Theo Đềcáctơ, cần phải bắt đầu việc nghiên cứu từ những sự vật đơn giản nhất, dễ nhận biết nhất, dần dần đi đến nghiên cứu những sự vật và hiện tượng phức tạp hơn. Đềcáctơ bổ sung thêm: toàn bộ phương pháp là ở trình tự và vị trí các sự vật mà lý trí cần hướng đến để tìm ra một chân lý nào đó. “Chúng ta kiên trì sử dụng nó, nếu dần dần đưa được những cái rối rắm và mơ hồ về những cái đơn giản, rồi sau đó, xuất phát từ sự lý giải những cái đơn giản nhất, cố gắng đi tới sự nhận thức những cái khác” (sđd, tr. 91). Quy tắc thứ tư - lập bảng liệt kê đầy đủ, đánh giá tổng quan các sự kiện, các phát minh, giả thiết, hệ thống, để chắc chắn rằng không có điều gì chúng ta bỏ qua. Đối với Bacon tri thức là sức mạnh. Đối với Decartes, để tri thức biến thành sức mạnh, cần loại bỏ những yếu tố ngẫu nhiên, chú ý những luận cứ của tư duy như sự minh chứng hùng hồn về con người - chủ thể tư duy: “Tôi tư duy, vậy tôi tồn tại”. Ở phương pháp luận của Đềcáctơ khái niệm trực giác (intuitus) chiếm vị trí đặc biệt, xuất phát từ nhu cầu về tính phân minh, rõ ràng của sự nghiên cứu và tính xác thực của tri thức. Trong lịch sử triết học khái niệm này có hai nghĩa: nghĩa thứ nhất gắn với nhận thức cảm tính trực tiếp về sự vật, đặc biệt với các hình Ảnh được xác định bằng thị giác; ở nghĩa thứ hai trực giác được xem như thứ ánh sáng bên trong nào đó, khi mà chân lý phức tạp nhất được nhận thức trong một cảm giác chắc chắn, phản ánh sự thống nhất rất cao các tiềm năng và sức mạnh nhận thức của con người, trong đó trực giác đóng vai trò là khâu hoàn thành của nhận thức. Trực giác của Đềcáctơ là trực giác trí tuệ; nó không phải là “niềm tin và sự kiểm chứng bấp bênh của cảm giác”, cũng không phải là “phán đoán lừa bịp của sự tưởng tượng vô căn cứ”, mà là “khái niệm bền vững của trí tuện rõ ràng, nghiêm túc, phân minh, chỉ được tạo ra bởi ánh sáng tự nhiên của lý trí và nhờ tính chân thực của mình mà tỏ ra chính xác hơn cả suy diễn” (sđd, tr. 86). Suy diễn (deduction) khác với trực giác bởi tính gián tiếp khi nêu ra chân lý. Điều cơ bản làm cho trực giác trở thành trực giác trí tuệ, là do nó đóng vai tào là điểm xuất phát đối với chuỗi suy diễn, đối với việc rút ra một khái niệm từ khái niệm khác. Do chỗ hiện thức là chuỗi các quan hệ của các sự vật, hiện tượng, các quan hệ tuân thủ các quy tắc của “toán học phổ quát”, nên sự nhận thức các quan hệ đó được thể hiện ở chuỗi suy diễn của các phán đoán. Mỗi trực giác nhất định tạo nên điểm bắt đầu của một trong những chuỗi ấy. Một đặc tính quan trọng của suy diễn là tính liên tục. Để thành công trong lập luận suy diễn cần có một trí nhớ mà nhờ đó ta liệt kê được các khâu của suy diễn. Ưu thế của trực giác so với suy diễn là tính trực tiếp, không đòi hỏi một cường độ ghi nhớ nào, tuy nhiên sau đó phải có suy diễn tiếp theo thì mới nêu bật được nội dung cốt lõi của nó. Trực giác và suy diễn thống nhất với nhau theo nghĩa này. Sau Decartes phái duy lý thu hút các nhà trtiết học như B. Spinoza, G, W. Leipniz, N. Malebranche … Thế hệ các nhà triết học sau Bacon và Decartes chú trọng nhiều hơn đến việc kết hợp hai khuynh hướng duy nghiệm và duy lým, hai phương pháp quy nạp và diễn dịch, nhằm đáp ứng đòi hỏi nhận thức sâu sắc về các hiện tượng của tự nhiên, xã hội, tư duy con người.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Bàn về phạm trù Thiện - ác - Hoàng Văn Thuận

Phân tích âm nhạc

Tư Tưởng mỹ học Ấn Độ phần 1