Tư Tưởng mỹ học Ấn Độ
Tư tưởng
mỹ học ở Ấn Độ cổ - trung đại
Họ và tên: Hoàng Văn Thuận – Sư phạm Triết
học – K62
1. Hoàn cảnh ra đời
và đặc điểm của triết học ấn độ cổ, trung đại
1.1. Hoàn cảnh
ra đời của tư tưởng triết học và mỹ học Ấn Độ cổ, trung đại
1.1.1. Điều kiện
tự nhiên
Ấn Độ là một bán đảo
lớn - một "tiểu lục địa" nằm ở miền Nam châu Á; phía Tây Nam và Đông
Nam giáp Ấn Độ Dương, phía Bắc là dãy Hymalaya hùng vĩ án ngữ theo một vòng
cung dài 2.600km.
Điều kiện thiên
nhiên và khí hậu của Ấn ộ rất phức tạp. Địa hình vừa có nhiều núi non trùng điệp,
vừa có nhiều sông ngòi với những vùng đồng bằng trù phú; có vùng khí hậu nóng, ẩm,
mưa nhiều, có vùng lạnh giá, quanh năm tuyết phủ, lại cũng có những vùng sa mạc
khô cằn, nóng nực. Tính đa dạng, khắc nghiệt của điều kiện tự nhiên và khí hậu
là những thế lực tự nhiên đè nặng lên đời sống và ghi dấu ấn đậm nét trong tâm
trí người Ấn Độ cổ.
1.1.2. Điều kiện
kinh tế - xã hội
Sự phát triển của
xã hội Ấn Độ cổ, trung đại có thể được chia thành ba thời kỳ sau.
a. Thời kỳ văn
minh sông ấn (Hay nền văn minh Harappa )
Xuất hiện vào khoảng
giữa thiên niên kỷ III đầu thiên niên kỷ II tr. CN. Qua các di chỉ khảo cổ cho
thấy đây là một nền văn minh đồ đồng mang tính chất đô thị của một xã hội đã vượt
qua trình độ nguyên thủy, đang tiến vào giai đoạn đầu của xã hội chiếm hữu nô lệ.
Sự phát triển của nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp đã đạt tới một
trình độ nhất định. Thành phố được xây dựng bằng gạch nung, theo một quy hoạch
thống nhất, có đường phố rộng rãi, thẳng tắp, có chợ búa, cửa hiệu, có giếng nước
và hệ thống thoát nước, có những bể tắm lớn...Thành phố được chia thành hai
khu, khu "dưới thấp" và "khu trên cao", cách biệt nhau về
quy mô nhà cửa và số lượng của cải chứng tỏ xã hội thời kỳ này đã xuất hiện sự
phân chia kẻ giàu và người nghèo rõ rệt.
Về công nghệ, có
nghề dệt bông len, nghề đúc đồng, điêu khắc, nghề làm nữ trang, nghề làm gốm sứ
tráng men đạt tới trình độ tinh xảo.
Thời kỳ này cũng đã
có chữ viết, được thấy trên các quả ấn bằng đồng hay đất nung. Tôn giáo cũng đã
xuất hiện biểu hiện qua các hình nổi điêu khắc trên các quả ấn.
b. Thời kỳ
Vêđa (khoảng từ thế kỷ XV đến thế kỷ VII tr.CN)
Vào khoảng thế kỷ
XV, các bộ lạc du mục của người Arya từ Trung á xâm nhập vào Ấn Độ, đem theo những
phong tục, tập quán, tín ngưỡng...và bắt người bản xứ làm nô lệ. Đây là thời kỳ
hình thành các quốc gia chiếm hữu nô lệ đầu tiên của người Arya trên lưu vực
sông Hằng và sông ấn.
Sau một thời gian
dài chung sống, người Arya và người Dravida bản xứ đã đồng hóa. Do tiếp thu được
kỹ thuật và văn minh của người Dravida, do chiếm được những vùng đất đai màu mỡ
và thuận lợi, người Arya bắt đầu chuyển từ chăn nuôi, du mục sang đời sống nông
nghiệp định cư, phát triển thủ công nghiệp và thương nghiệp. Đặc trưng của nền
kinh tế nông nghiệp thời kỳ này là kinh tế tiểu nông kết hợp chặt chẽ với thủ
công nghiệp gia đình nên tính chất tự cấp tự túc là nổi bật và quan hệ trao đổi
giữa các công xã rất yếu ớt. Đó cũng là nguyên nhân làm xã hội ấn độ phát triển
rất chậm chạp và trì trệ.
Về mặt xã hội, thời
kỳ này đã xuất hiện chế độ đẳng cấp ( varna - màu sắc, chủng tính) góp phần quy
định cơ cấu xã hội và ảnh hưởng đến hình thái tư tưởng ấn độ cổ đại. Đó là chế
độ xã hội dựa trên sự phân biệt về chủng tộc, màu da, dòng dõi, nghề nghiệp,
tôn giáo, quan hệ giao tiếp, tục cấm kỵ hôn nhân...được hình thành trong thời kỳ
người Arya chinh phục, thống trị người Dravida, cũng như trong cả quá trình
phân hóa xã hội ngày càng sâu sắc giữa quý tộc và thường dân Arya. Theo thánh điển
Bàlamôn và bộ luật Manu, xã hội ấn độ cổ đại chia thành bốn đẳng cấp lớn: Đứng
đầu là đẳng cấp tăng lữ, lễ sư Bàlamôn (Brahmana); thứ hai là đẳng cấp vương
công, vua chúa, tướng lĩnh, võ sĩ (Kshatriya); thứ ba là đẳng cấp thương nhân,
điền chủ và thường dân Arya (Vaishya); thứ tư là đẳng cấp tiện dân và nô lệ
(Shudra). Ngoài bốn đẳng cấp trên còn có những người bị coi là ngoài lề đẳng cấp
xã hội. Đó là tầng lớp người cùng đinh, hạ đẳng (Paria) như người Chandala.
Thời kỳ Vêđa cũng
là thời kỳ hình thành các tôn giáo lớn mà tư tưởng và tín ngưỡng của nó ảnh hưởng
đậm nét tới đời sống tinh thần xã hội ấn độ cổ đại, như đạo Rig - Vêđa, đạo
Bàlamôn, sau đó là đạo Phật, đao Jaina...
c. Thời kỳ từ
thế kỷ VI đến thế kỷ I tr. CN
Các quốc gia chiếm
hữu nô lệ đã thực sự phát triển, thường xuyên thôn tính lẫn nhau dẫn đến sự
hình thành các quốc gia lớn, các vương triều thống nhất ở ấn độ như Magadha ,
Maurya. Trong thời kỳ này nền kinh tế, xã hội và văn hóa ấn độ có những bước
phát triển tiến bộ vượt bậc. Mặc dù nền kinh tế tự nhiên vẫn chiếm ưu thế,
nhưng thương nghiệp, buôn bán cũng phát triển hình thành một tầng lớp mới trong
cơ cấu giai cấp xã hội ấn độ - tầng lớp thương nhân và thợ thủ công. Tiền kim
loại xuất hiện, nhiều thành phố trở thành trung tâm công thương nghiệp quan trọng.
Nhiều con đường thương mại thủy bộ nối liền các thành thị với nhau và thông từ ấn
độ qua Trung Hoa, Ai Cập và miền Trung á... dần dần xuất hiện.
Tóm lại:
Xã hội ấn độ cổ, trung đại có những đặc điểm nổi bật như sau:
+ Sự tồn tại dai dẳng
của chế độ công xã nông thôn. + Chế độ đẳng cấp rất khắc nghiệt. + Chế độ quốc
hữu hóa về ruộng đất và lao động + Tôn giáo bao trùm và chi phối toàn bộ đời sống
xã hội.
1.1.3. Tiền đề
khoa học và văn hóa
Ngay từ thời Vêđa,
thiên văn học ấn độ đã bắt đầu xuất hiện. Người ấn độ cổ đã biết sáng tạo ra lịch
pháp, phỏng đoán trái đất hình cầu và tự quay quanh trục của nó. Cuối thế kỷ V
tr.CN, người ấn độ đã giải thích được hiện tượng nhật thực và nguyệt thực.
Về toán học, họ đã
phát minh ra chữ số thập phân, tính được trị số pi ( ), biết được những định luật
cơ bản về quan hệ giữa cạnh và đường huyền của một tam giác vuông, biết giải
phương trình bậc 2, 3...
Nền y học ấn độ có
từ rất sớm. Ngay trong kinh Vêđa, người ta đã tìm thấy nhiều tên cây làm thuốc
và nhiều phương pháp trị bệnh đơn giản. Vào thế kỷ V tr.CN, Shursada đã viết
sách trình bày thuật chữa bệnh ngoại khoa, bảo trợ thai, vệ sinh hài nhi,
phương pháp dưỡng sinh, tiêu độc...
Trong nghệ thuật kiến
trúc, người ấn độ đã có một phong cách kiến trúc độc đáo, tinh tế, đặc biệt là
lối xây dựng chùa chiền, tháp Phật theo kiểu hình tháp vừa có ý nghĩa triết học,
tôn giáo, vừa biểu hiện ý chí, vương quyền.
Tất cả những đặc điểm
lịch sử, kinh tế, chính trị - xã hội cùng với sự phát triển rực rỡ của văn hóa,
khoa học ấn độ cổ đại là những tiền đề lý luận và thực tiễn phong phú làm nảy
sinh và phát triển những tư tưởng triết học của ấn độ cổ đại.
Các tư tưởng mỹ học
cũng từ những tư tưởng triết học đó mà hình thành nên từ đó. Và nó chịu ảnh hưởng
của các tư tưởng triết học.
2. Tư tưởng mỹ học.
Về tư tưởng mỹ học
của Ấn Độ em chỉ lấy các tư tưởng tiêu biểu của mỹ học dân gian và mỹ học tôn
giáo – triết học.
2.1. Tư tưởng mỹ học
trong dân gian
Được thể hiện trong văn học nghệ thuật dân gian
như thần thoại, sử thi, truyện cổ tích… Nó mang tính chủ nghĩa nhân văn, chủ
nghĩa anh hùng ca, ca ngợi vẻ đẹp của
con người. Ví ụ trong hai bộ sử thi Ramayana và Mahabharata. Trong sử thi anh hùng ca, nhân vật trung tâm bao giờ
cũng là người anh hùng toàn thiện toàn mỹ và các nhân vật khác chỉ giữ vai trò
phụ, mờ nhạt và quy tụ làm tôn thêm vẻ đẹp cho người anh hùng. Nhân vật anh
hùng mang tính khái quát, mang tính lý tưởng xã hội và lý tưởng thẩm mỹ của thời
đại đã sản sinh ra nó. Ngoài tầm vóc mang kích thước vũ trụ, tiêu biểu cho sức
mạnh thể chất – tinh thần của cộng đồng dân tộc, nhân vật anh hùng sử thi còn
sáng ngời vẻ đẹp của đức hạnh, trí tuệ, tài năng và lòng dũng cảm,…
Tất cả được thể hiện qua những hành động cao cả, dũng cảm
của người anh hùng với những chiến công hiển hách. Nhân vật anh hùng sử thi
không thể tồn tại nếu không vượt qua được mọi khó khăn thử thách để giành chiến
thắng. Người anh hùng phải có những khát vọng lớn lao, những lý tưởng cao cả và
lý tưởng ấy cũng là đại diện cho lý tưởng của cộng đồng dân tộc. Những vẻ đẹp về
sức mạnh thể chất, tinh thần, tài năng và những phẩm giá ưu tú của cộng đồng được
thể hiện qua nhân vật người anh hùng trong mối quan hệ với tự nhiên, xã hội.
a. Vẻ đẹp về ngoại hình
Nhân vật anh hùng trong sử thi về ngoại hình phần lớn thường
có tầm vóc đẹp, có kích thước lớn lao. Đây là điều hết sức hợp lý bởi nó là sự
cộng hưởng thể chất của cả cộng đồng. Và ở cộng đồng nào thì người anh hùng sử
thi đều xuất hiện trọng vẻ đẹp tạo hình theo quan điểm thẩm mỹ, theo chuẩn mực
riêng của cộng đồng ấy.
Người anh hùng trong sử thi Phương Tây được xây dựng dựa
trên thế giới quan thần linh chủ nghĩa. Vì thế nhân vật anh hùng mang một vẻ đẹp
siêu phàm và kỳ vĩ. Người anh hùng trong sử thi Phương Đông được xây dựng dựa
trên cảm quan và tư duy tôn giáo. Người Ấn Độ chú trọng đời sống tâm linh, nên
hình dáng không chỉ là cái bên ngoài mà còn là hình dáng được cảm nhận từ bên
trong. Trong sử thi Mahabharata, có rất nhiều nhân vật anh hùng lý tưởng nhưng mỗi nhân
vật lại xuất sắc về một mặt nào đó. Hình ảnh Arjuna bước vào hội cầu hôn
Draupadi: “Arjuna – chàng trai trẻ, như thân của một con voi, có đôi vai, cánh
tay và bắp đùi rắn chắc. Nếu nhìn kỹ, trông chàng ta sừng sững như đỉnh
Himavat. Arjuna có dáng đi như dáng đi của một con sư tử, có sức mạnh như sức mạnh
của một con voi thời sung mãn… Chàng ta trông thật quyết chí và chắc chắn giành
được chiến thắng”. Vẻ đẹp của người anh hùng thường với tầm vóc hoành tráng, kỳ
vĩ thường được so sánh với phong thái uy nghi đường bệ của các vị thần linh.
Bhima “Người ông trông hệt như Ngọc hoàng Indra đứng giữa các chư thần giơ cao
lưỡi tầm sét”.
Trong sử thi Ramayana, nhân vật anh hùng lại có được vẻ ngoài thánh thiện do
các biện pháp kỹ thuật sử thi được sử dụng trong sự kết hợp nhuần nhuyễn với những
yếu tố tôn giáo. Hoàng tử Rama trong tác phẩm có “đôi mắt sáng như mặt trời và
mặt trăng, có đôi tai nghe thấu nhạc của trời đất, chàng là kẻ thù của mọi sự
ghen tuông hờn giận và tội ác tàn bạo”.
Chuẩn mực vẻ đẹp bề ngoài của người anh hùng không ở vấn
đề toàn thiện, toàn mỹ mà vẻ đẹp ấy phải phù hợp với khí phách hào hùng, với
nhiệm vụ bảo vệ cộng đồng dân tộc. Đó cũng là một kiểu dáng vóc sử thi.
b. Về vẻ đẹp phẩm chất - sức mạnh,
tài năng, trí tuệ, đức hạnh
Ngoài tầm vóc mang kích thước vũ trụ, tiêu biểu cho sức mạnh
thể chất – tinh thần của cộng đồng dân tộc, nhân vật anh hùng sử thi còn sáng
ngời vẻ đẹp của đức hạnh, trí tuệ, tài năng và lòng dũng cảm,… Tất cả được thể
hiện qua những hành động cao cả, dũng cảm của người anh hùng với những chiến
công hiển hách. Hêghen đã nhận định: “Tinh thần dũng cảm làm thành cái hứng thú
chủ yếu mà tinh thần dũng cảm là một trạng thái tâm hồn và một hoạt động không
hợp với tính cách biểu hiện trữ tình, cũng không phù hợp với hành động có tính
kịch, nhưng lại đặc biệt phù hợp với hình tượng sử thi”. Nhân vật anh hùng sử
thi không thể tồn tại nếu không vượt qua được mọi khó khăn thử thách để giành
chiến thắng vang dội, lập được những chiến công hiển hách. Người anh hùng phải
có những khát vọng lớn lao, những lý tưởng cao cả và lý tưởng ấy cũng là đại diện
cho lý tưởng của cộng đồng dân tộc.
Lòng dũng cảm, ý chí và nghị lực phi thường được coi là
những phẩm chất đạo đức có tính chất tuyệt đối của người anh hùng trong sử thi.
Trong sử thi Mahabharata, có thể tìm thấy nhiều nhân vật anh hùng nhưng ở mỗi người
anh hùng lại xuất sắc và ưu tú về một mặt nào đó. Sự lựa chọn hành động để làm
nổi bật điểm mạnh của từng nhân vật cũng là khuôn mẫu truyền thống trong các sử
thi anh hùng. Thể hiện sức mạnh thể chất của người anh hùng được biểu hiện qua
nhân vật Bhima. Sự thể hiện trí tuệ và tài năng của người anh hùng thì được biểu
hiện qua hành động của nhân vật Arjuna. Trí tuệ và đạo đức của người anh hùng lại
được thể hiện qua nhân vật Yudhisthira. Đạo lý là tiêu chí để đánh giá hành động
của nhân vật này, tạo nên một gam màu riêng về khuôn mẫu người anh hùng Ấn Độ.
Sức mạnh của Yudhisthira không phải ở thể lực hay tài năng chiến binh mà là sức
mạnh siêu phàm của trí tuệ và sự công bằng, đạo đức trong sáng. Trí tuệ ấy giúp
chàng hiểu được tận cùng cốt lõi của đạo lý. Yudhisthira đã giành sự sống cho
các em mình bằng sự công minh, chính trực, cao thượng với trái tim nhân hậu.
Như vậy, trong sử thi Mahabharata, nhân vật
anh hùng lý tưởng là sự tổng hòa của nhiều nhân vật, mỗi nhân vật thể hiện cái
nhất thể lý tưởng và là một kiểu nhân vật điển hình trong “Bức tượng N vị nhất
thể”.
Trong sử thi Ramayana, nhân vật
Rama được xây dựng là người anh hùng lý tưởng “toàn thiện toàn mỹ”. Rama được đặt
trong mối quan hệ, xung đột với các nhân vật khác để người anh hùng bộc lộ những
tài năng, đức hạnh của mình. Người anh hùng Rama trong sử thi Ramayana được xây dựng không chỉ đẹp về hình thức mà tài năng và đức
hạnh của chàng cũng rực rỡ như các vì sao trên bầu trời. Một chương trong khúc
ca thứ nhất nói về sự ra đời của người anh hùng “Rama ra đời” tuy rất ngắn gọn
nhưng đã khái quát được những nét điển hình trong tính cách, sức mạnh tài năng
và đức hạnh của người anh hùng. Trong bốn người con của vua Đaxaratha thì “Rama
hùng mạnh vô song thì tính cách không tì vết như trăng rằm, là niềm vui sướng của
những ai được nom thấy chàng. Chàng là một trang kỵ mã lão luyện, một tay điều
khiển chiến xa thành thục, và có thể cưỡi voi. Chàng là một tay bắn cung bậc thầy
và không hề sao nhãng mảy may việc luyện tập võ nghệ cũng như sớm hôm phụng dưỡng
cha già”. Đặc biệt sử thi đã dành hẳn Chương 1- Người anh hùng trong khúc ca thứ hai: Khúc ca Ayođhya để khắc họa hình tượng người anh hùng toàn thiện toàn mỹ.
Trong đó đặc biệt chú trọng tô đậm vẻ đẹp phẩm chất đạo đức, tôn giáo của người
anh hùng: “Chàng khôi ngô tuyệt vời và lòng dạ chàng trong sáng như gương và
cũng toàn năng như cha… Chàng trẻ trung, khỏe mạnh, có đức hạnh, và dân chúng
coi chàng như chính bản thân họ vậy. Chàng thông tuệ kinh Vêđa và Vêđanga, lão
luyện tinh thông mọi vũ khí được sử dụng, với sự hỗ trợ hay không của ác thần
chú Mantra. Chàng dũng cảm, ngay thẳng thật thà và là nguồn gốc của mọi điều
thiện… Chàng khiêm tốn, có ý tứ và bao giờ cũng tỏ lòng tôn kính đối với các bậc
bề trên… Chàng hết sức cao siêu về triết học và có tài lớn về thi ca.” Về sức mạnh
và tài năng trong chiến đấu của người anh hùng lại được khắc họa hết sức ngắn gọn
ngay ở chương giới thiệu: “Chàng là một tay kỵ mã lão luyện, một chiến binh kiệt
xuất, một tướng lĩnh dũng cảm dắt dẫn quân đội chiến thắng kẻ thù và tinh thông
đủ mọi thuật bài binh bố trận. Chàng là người bất khả chiến thắng ngay cả trước
các chư thần”(11). Lòng dũng cảm, ý chí và nghị lực phi thường của người anh
hùng Rama được thể hiện rõ hơn khi chàng chấp nhận lưu đày mười bốn năm trong rừng
với mọi khó khăn thử thách. Chàng đón nhận với tâm trạng nhẹ nhàng bình thản:
“Không ai nom thấy bất cứ một dấu hiệu buồn khổ nào trong thái độ của
chàng”(12). Hay trong các cuộc giao tranh, lòng dũng cảm, sức mạnh và vũ khí lợi
hại của người anh hùng đã khiến kẻ thù khi trông thấy đều khiếp sợ: “Quân
Raksaxa đâm hoảng loạn và bắt đầu kêu thét lên khiếp đảm lúc trông thấy Rama,
như con voi phải lánh xa khi nom thấy con sư tử” (13).
Nhân vật anh hùng sử thi không thể tồn tại mà không có lý
tưởng cao cả, khát vọng lớn lao. Lý tưởng ấy cũng chính là đại diện cho lý tưởng
cộng đồng dân tộc. Trong sử thi Hy Lạp, người anh hùng mang lý tưởng tập thể thị
tộc, bộ lạc, lý tưởng của những con người tràn đầy sức sống và nhiệt tình sôi nổi,
khao khát lập chiến công và vinh quang. Chàng Hecto trong sử thi Iliát với mục đích chiến đấu lập chiến công để lưu danh hậu thế
nhưng đó cũng chính là lý tưởng chiến đấu vì bộ lạc, vì quyền lợi của cộng đồng..
Nếu như người anh hùng trong các sử thi Hy Lạp luôn hướng
tới chiến thắng và vinh quang nơi chiến trận, nơi biển khơi thì người anh hùng
trong các sử thi Ấn Độ lại mang lý tưởng thuần khiết hơn: lý tưởng về điều thiện,
về lẽ phải, về đạo lý ở đời. Trong sử thi Mahabharata lời giáo huấn của Krishna dựa trên cơ sở vững chắc của lẽ
Dharma: “Ai cũng phải chết, người anh hùng hay kẻ nhát gan cũng vậy, nhưng nhiệm
vụ cao quý nhất của một Kshatriya là phải trung thành với dòng dõi và niềm tin
của mình, phải đè bẹp quân thù trong những trận đánh chính đáng mà giành lấy
vinh quang”.
Trong sử thi Ramayana, người anh hùng Rama luôn lùi bước trước những hành động
đi ngược lại bổn phận. Với niềm tin lý tưởng “chiến thắng thuộc về những người
đề cao Dharma” nên người anh hùng Rama luôn hành xử theo bổn phận, tinh thần
cao thượng và sự vị tha. Rama được quyền nối ngôi cha, nhưng vì cha đã hứa với
thứ phi Kaikêyi đày mình vào rừng để nhường ngôi báu cho Bharata, Rama không
dám cãi lại lệnh cha. “Lời hứa của cha là danh dự, danh dự của cha là danh dự của
mình và của dòng giống. Tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh của cha là một bổn phận.
Đó là tiêu chuẩn đạo đức của đẳng cấp quý tộc và xã hội đương thời” . Chàng vui
lòng từ giã cuộc sống vương giả để ra đi và chàng nói với thứ phi Kakêyi:
“Không có một đạo giáo nào lớn hơn là phụng sự cha mình và thực hiện mệnh lệnh
của cha… Phụng sự cha là bổn phận cao nhất của con người”. Theo quan niệm của
người Ấn Độ, người anh hùng lý tưởng bên cạnh sức mạnh, tài năng và lòng dũng cảm
thì phải là con người luôn luôn thực hiện Dharma. Trong sử thi Ramayana, người anh hùng
Rama được khắc họa nổi bật lên cùng phẩm chất tuyệt đối trung thành với bổn phận,
có sự bao dung độ lượng cao cả và ý thức về danh dự. Mọi hành động của Rama đều
luôn tuân thủ tuyệt đối theo trách nhiệm và bổn phận của Dharma. Một tình huống
thấm đẫm nước mắt là khi Rama buộc tội Xita, đây là thử thách buộc người anh
hùng phải lựa chọn Danh dự hay Tình yêu? Quyền lợi, trật tự xã hội của cộng đồng
hay Hạnh phúc cá nhân? Rama đã lựa chọn hy sinh người mình yêu thương nhất để lựa
chọn hành động theo bổn phận thuần khiết của một đấng quân vương là xây dựng
gia đình chuẩn mực, có vị hoàng hậu đáng kính nể về tình yêu chung thủy. Vì vậy,
Rama được người Ấn Độ xem như là hiện thân của đạo lý Dharma, “là khuôn vàng
thước ngọc của đẳng cấp Kshatrya”.
Nhân vật anh hùng sử thi luôn hiện diện song hành cùng sức
mạnh thể chất và tài năng, phẩm chất đạo đức siêu phàm, là người anh hùng toàn
thiện toàn mỹ và trở thành “khuôn vàng thước ngọc” về vẻ đẹp vật chất và sức mạnh
đạo đức của con người thời đại. Người anh hùng trong Ramayana là sự khái quát hóa cao độ những khát vọng lý tưởng về sức
mạnh, tài năng, lòng dũng cảm, đức hạnh của toàn thể cộng đồng dân tộc sản sinh
ra nó. Vẻ đẹp ấy là chỗ dựa, niềm tự hào của cả cộng đồng dân tộc nên luôn được
nhìn nhận, đánh giá, ngợi ca với niềm tôn kính thiêng liêng. Người anh hùng
trong Ramayana trở thành
biểu tượng cho tâm hồn, tính cách dân tộc Ấn Độ yêu chuộng hòa bình, hòa hợp và
bình đẳng.
2.1.2. Tư tưởng mỹ học trong các học thuyết triết học –
tôn giáo.
Nó mang thiên hướng về vẻ đẹp con người, các tưởng nhân
sinh quan để làm thế nào trở thành con người có vẻ đẹp hoàn thiện, đúng với những
lời răn dạy của các tôn giáo, các tư tưởng của các nhà triết học, các trường phái…
Ở đây rõ nhất đó là về tưởng mỹ học của Phật giáo.
2.1.3 Mỹ học của Phật giáo
a.Đức Phật không xây dựng hệ thống tư tưởng của mình để trả lời những câu
hỏi về bản thể. Đó là một hệ thống cảm nhận, miêu tả, thể nghiệm và giải thoát
cho cuộc đời. Như vậy, đó là một hệ thống thực nghiệm, thực hành.
Mỹ học là một khái niệm chung, nó chỉ định bộ môn khoa học nghiên cứu
những mối quan hệ thẩm mỹ. Do vậy, không có một mỹ học riêng của từng dân tộc,
từng cộng đồng xã hội. Nhưng, tùy từng tồn tại, vẫn có thể có những hệ thống tư
tưởng thẩm mỹ, những mỹ cảm riêng biệt. Cho nên, chúng ta vẫn có thể chấp nhận
khái niệm “hệ thống mỹ học Phật giáo”.
Nếu nghệ thuật là ngôn ngữ của những nỗi đau đời- “những điều trông thấy
mà đau đớn lòng” (Nguyễn Du), thì Đức Phật là một nghệ sĩ lớn. Và nếu nghệ
thuật cũng là ngôn ngữ của cái VÔ, thì Đức Phật cũng là một nhà mỹ học vĩ đại,
Đức Phật là nhà mỹ học của thể nghiệm thẩm mỹ thông qua một chủ thể mang biện
chứng thẩm mỹ nội tại. Do vậy, hệ thống mỹ học ấy rất sâu lắng, cái sâu lắng
của tự thân vận động.
Phật học không phải là một triết học, càng không phải là một triết học lý
giải bản thể. Hệ thống này không đi tìm những định nghĩa về yếu tính. Bàlamôn,
từ Védas đến Upanishad, đều tập trung trả lời cho hai câu hỏi: – Vũ trụ là gì?
Hệ thống ấy đã trả lời bằng bản thể “Thần Một”, bằng Brahman, Atman. Lão, Trang
đi tìm bản thể, tìm quy luật thế giới để đưa ra những khái niệm “Tự nhiên, Vô
vi”. Tự nhiên là quy luật khách quan, và Vô vi là sống theo cái tự nhiên vô
thức ấy.
Cả một dòng triết học phương Tây từ Cổ đại Hy- La, Trung cổ, Phục hưng,
Khai sáng, Cổ điển Đức… đều là triết học bản thể. Họ giải thích yếu tính của vũ
trụ và con người. Dòng triết học bản thể ấy kết tinh lại trong “vật- cho- ta”
và “vật- tự- nó” của I.Kant, trong “Tinh thần tuyệt đối” của biện chứng duy tâm
Hégel. C.Mác đứng ở đỉnh cao của triết học để thực thi một phủ định biện chứng
triết học cổ truyền, cho ra đời chủ nghĩa Duy vật biện chứng.
Đức Phật không xây dựng hệ thống tư tưởng của mình để trả lời những câu
hỏi về bản thể. Đó là một hệ thống cảm nhận, miêu tả, thể nghiệm và giải thoát
cho cuộc đời. Như vậy, đó là một hệ thống thực nghiệm, thực hành.
Mỹ học Phật giáo là một hệ thống nằm trong hệ thống lớn trên. Nó không lý
giải các bản thể thẩm mỹ, mà cảm nhận, thể nghiệm các quan hệ thẩm mỹ nhân
sinh.
Đức Phật “thấy” Khổ đế, Tập đế, tức cái Bi. Đây là điểm xuất phát của mỹ
học Phật giáo. Nó vừa là một năng lực cảm nhận, thể nghiệm, lại vừa là một năng
lực tư tưởng về sự giải phóng nhân sinh. Làm sao mà một hoàng tử sống trong
nhung lụa, quyền uy… lại có thể cảm nhận được Khổ đế? Đây là cả một biện chứng
pháp nội tại.
Đức Phật đã cảm nhận được cái “biện chứng sa đọa” của chính tầng lớp thống
trị với tư cách là một người trong cuộc. Đại thi hào Nguyễn Du của chúng ta
cũng đã viết Truyện Kiều bằng cảm hứng của một tâm hồn cảm nhận sâu sắc cái
biện chứng nội tại này. Chúng ta hiểu vì sao mà truyện Kiều lại đậm đà một thẩm
mỹ Phật giáo.
Trong cảm nhận “biện chứng sa đọa nội tại” của tầng lớp thống trị (chữ
dùng của C.Mác), Đức Phật đã cảm nhận được cái lẽ bể khổ của con người. Nước
mắt chúng sinh còn nhiều hơn cả nước của năm đại dương. Các tư tưởng Khổ khổ,
Hành khổ, Hoại khổ là cái cơ sở của tư tưởng mỹ học Phật giáo. Điều này, các
ông Mác Mule, Trêbátxki… đã nói tới trong những tác phẩm nghiên cứu uyên bác về
Phật giáo của họ.
Cảm nhận biện chứng sa đọa nội tại có bao hàm một thái độ phủ định của con
người ở trong tầng lớp thống trị đối với giai cấp thống trị. Như vậy, trong
đồng cảm với kiếp sống con người, Đức Phật đã có một từ chối với sự thống trị-
nguyên nhân cơ bản của Khổ.
Phần đã trình bày là tư tưởng của Phật giáo về thẩm mỹ cái bi kịch.
Đó là một hệ thống. Phật giáo đã trình bày phạm trù thẩm mỹ này như là một
cấu trúc mâu thuẫn, mâu thuẫn giữa con người với hoàn cảnh, và mâu thuẫn nội
tại trong một cá thể người chưa giác ngộ.
Niết bàn là giải pháp tuyệt đối cho bi kịch ấy.
Nhưng Niết bàn là gì?
Chốn ấy ở đâu?
Đức Phật chỉ ngón tay kỳ diệu của mình về Cái Đẹp. Vành trăng ấy chỉ gói
trọn một chữ tâm. Có Tâm mới có Vô Ngã.
Tâm không tự có như một tiên thiên. Tâm là kết quả của một đại lực, đại
hùng. Không loại trừ được cái Tập đế, cái Thường, cái Ngã, cứ sống mãi trong
vòng Ngũ uẩn… nghĩa là, cứ sống trong tha hóa… thì “lòng đục”, thấy sao được
chữ Tâm. Tâm là kết quả của Diệt đế, Đạo đế.Có một tiến trình đại dũng là để đi
tới đại nhân, đại trí. Đó chính là logic mỹ học của nhân cách Phật giáo.
Chuyển hóa được từ phạm trù cái bi đến phạm trù cái Đẹp là do một lực
lượng nội tại hùng hậu của chủ thể Phật giáo.
Cái bi không phải chỉ được chuyển hóa thành cái đẹp, mà còn được chuyển
hóa thành phạm trù cái Trác tuyệt.
Phật giáo là ngón tay chỉ cho mỗi chúng sinh đang trầm luân chao đảo trong
bể khổ, tự mình thiết lập được thế thăng bằng của cấu trúc cái Đẹp, tự mình
vươn tới Cao cả. Đó là thẩm mỹ của Thiền.
Hạt nhân của hệ thống mỹ học Phật giáo là thẩm mỹ của tư tưởng nhân đạo
hiện thực, nhân văn. Tất cả đó đều từ con người, vì con người và về với con
người. Tất cả đều là mỹ học cho con người tại thế. Như vậy, Phật giáo đã cho
chúng ta một định nghĩa về mỹ học.
b. Siddhattha đã cho ra đời định nghĩa về mỹ học.
Siddhattha không xây dựng hệ thống tư
tưởng của mình để trả lời những câu hỏi về bản thể. Đó là một hệ thống cảm nhận,
miêu tả, thể nghiệm và giải thoát cho cuộc đời. Như vậy, đó là một hệ thống thực
nghiệm, thực hành.
Mỹ học là một khái niệm chung, nó chỉ định bộ
môn khoa học nghiên cứu những mối quan hệ thẩm mỹ. Do vậy, không có một mỹ học
riêng của từng dân tộc, từng cộng đồng xã hội. Nhưng, tuy từng tồn tại, vẫn có thể có
những hệ thống tư tưởng thẩm mỹ, những mỹ cảm riêng biệt. Cho nên, chúng ta vẫn
có thể chấp nhận khái niệm "hệ thống mỹ học Phật giáo".
Nếu nghệ thuật là ngôn ngữ của những nỗi đau
đời- "những điều trông thấy mà đau đớn lòng" (Nguyễn Du), thì
Siddhattha là một nghệ sĩ lớn. Và nếu nghệ thuật cũng là ngôn ngữ của cái VÔ,
thì Siddhattha cũng là một nhà mỹ học vĩ đại, Siddhattha là nhà mỹ học của thể
nghiệm thẩm mỹ thông qua một chủ thể mang biện chứng thẩm mỹ nội tại. Do vậy, hệ
thống mỹ học ấy rất sâu lắng, cái sâu lắng của tự thân vận động.
Phật học không phải là một
triết học, càng không phải là một triết học lý giải bản thể. Hệ thống này không
đi tìm những định nghĩa về yếu tính. Bàlamôn, từ Védas đến Upanishad, đều tập
trung trả lời cho hai câu hỏi: - Vũ trụ là gì? Hệ thống ấy đã trả lời bằng bản
thể "Thần Một", bằng Brahman, Atman. Lão, Trang đi tìm bản thể, tìm
quy luật thế giới để đưa ra những khái niệm "Tự nhiên, Vô vi". Tự
nhiên là quy luật khách quan, và Vô vi là sống theo cái tự nhiên vô thức ấy.
Cả một dòng triết học phương Tây từ Cổ đại Hy- La, Trung cổ, Phục hưng, Khai sáng, Cổ điển Đức... đều là triết học bản thể. Họ giải thích yếu tính của vũ trụ và con người. Dòng triết học bản thể ấy kết tinh lại trong "vật- cho- ta" và "vật- tự- nó" của I.Kant, trong "Tinh thần tuyệt đối" của biện chứng duy tâm Hégel. C.Mác đứng ở đỉnh cao của triết học để thực thi một phủ định biện chứng triết học cổ truyền, cho ra đời chủ nghĩa Duy vật biện chứng.
Siddhattha không xây dựng hệ thống tư tưởng của mình để trả lời những câu hỏi về bản thể. Đó là một hệ thống cảm nhận, miêu tả, thể nghiệm và giải thoát cho cuộc đời. Như vậy, đó là một hệ thống thực nghiệm, thực hành.
Mỹ học Phật giáo là một hệ thống nằm trong hệ thống lớn trên. Nó không lý giải các bản thể thẩm mỹ, mà cảm nhận, thể nghiệm các quan hệ thẩm mỹ nhân sinh.
Siddhattha "thấy" Khổ đế, Tập đế, tức cái Bi. Đây là điểm xuất phát của mỹ học Phật giáo. Nó vừa là một năng lực cảm nhận, thể nghiệm, lại vừa là một năng lực tư tưởng về sự giải phóng nhân sinh. Làm sao mà một hoàng tử sống trong nhung lụa, quyền uy... lại có thể cảm nhận được Khổ đế? Đây là cả một biện chứng pháp nội tại.
Siddhattha đã cảm nhận được cái "biện chứng sa đọa" của chính tầng lớp thống trị với tư cách là một người trong cuộc. Đại thi hào Nguyễn Du của chúng ta cũng đã viết Truyện Kiều bằng cảm hứng của một tâm hồn cảm nhận sâu sắc cái biện chứng nội tại này. Chúng ta hiểu vì sao mà truyện Kiều lại đậm đà một thẩm mỹ Phật giáo.
Trong cảm nhận "biện chứng sa đọa nội tại" của tầng lớp thống trị (chữ dùng của C.Mác), Siddhattha đã cảm nhận được cái lẽ bể khổ của con người. Nước mắt chúng sinh còn nhiều hơn cả nước của năm đại dương. Các tư tưởng Khổ khổ, Hành khổ, Hoại khổ là cái cơ sở của tư tưởng mỹ học Phật giáo. Điều này, các ông Mác Mule, Trêbátxki... đã nói tới trong những tác phẩm nghiên cứu uyên bác về Phật giáo của họ.
Cảm nhận biện chứng sa đọa nội tại có bao hàm một thái độ phủ định của con người ở trong tầng lớp thống trị đối với giai cấp thống trị. Như vậy, trong đồng cảm với kiếp sống con người, Siddhattha đã có một từ chối với sự thống trị- nguyên nhân cơ bản của Khổ.
Phần đã trình bày là tư tưởng của Phật giáo về thẩm mỹ cái bi kịch.
Đó là một hệ thống. Phật giáo đã trình bày phạm trù thẩm mỹ này như là một cấu trúc mâu thuẫn, mâu thuẫn giữa con người với hoàn cảnh, và mâu thuẫn nội tại trong một cá thể người chưa giác ngộ.
Niết bàn là giải pháp tuyệt đối cho bi kịch ấy.
Nhưng Niết bàn là gì?
Chốn ấy ở đâu?
Siddhattha chỉ ngón tay kỳ diệu của mình về Cái Đẹp. Vành trăng ấy chỉ gói trọn một chữ tâm. Có Tâm mới có Vô Ngã.
Tâm không tự có như một tiên thiên. Tâm là kết quả của một đại lực, đại hùng. Không loại trừ được cái Tập đế, cái Thường, cái Ngã, cứ sống mãi trong vòng Ngũ uẩn... nghĩa là, cứ sống trong tha hóa... thì "lòng đục", thấy sao được chữ Tâm. Tâm là kết quả của Diệt đế, Đạo đế.
Có một tiến trình đại dũng là để đi tới đại nhân, đại trí. Đó chính là logic mỹ học của nhân cách Phật giáo.
Chuyển hóa được từ phạm trù cái bi đến phạm trù cái Đẹp là do một lực lượng nội tại hùng hậu của chủ thể Phật giáo.
Cái bi không phải chỉ được chuyển hóa thành cái đẹp, mà còn được chuyển hóa thành phạm trù cái Trác tuyệt.
Phật giáo là ngón tay chỉ cho mỗi chúng sinh đang trầm luân chao đảo trong bể khổ, tự mình thiết lập được thế thăng bằng của cấu trúc cái Đẹp, tự mình vươn tới Cao cả. Đó là thẩm mỹ của Thiền.
Hạt nhân của hệ thống mỹ học Phật giáo là thẩm mỹ của tư tưởng nhân đạo hiện thực, nhân văn. Tất cả đó đều từ con người, vì con người và về với con người. Tất cả đều là mỹ học cho con người tại thế. Như vậy, Phật giáo đã cho chúng ta một định nghĩa về mỹ học.
Cả một dòng triết học phương Tây từ Cổ đại Hy- La, Trung cổ, Phục hưng, Khai sáng, Cổ điển Đức... đều là triết học bản thể. Họ giải thích yếu tính của vũ trụ và con người. Dòng triết học bản thể ấy kết tinh lại trong "vật- cho- ta" và "vật- tự- nó" của I.Kant, trong "Tinh thần tuyệt đối" của biện chứng duy tâm Hégel. C.Mác đứng ở đỉnh cao của triết học để thực thi một phủ định biện chứng triết học cổ truyền, cho ra đời chủ nghĩa Duy vật biện chứng.
Siddhattha không xây dựng hệ thống tư tưởng của mình để trả lời những câu hỏi về bản thể. Đó là một hệ thống cảm nhận, miêu tả, thể nghiệm và giải thoát cho cuộc đời. Như vậy, đó là một hệ thống thực nghiệm, thực hành.
Mỹ học Phật giáo là một hệ thống nằm trong hệ thống lớn trên. Nó không lý giải các bản thể thẩm mỹ, mà cảm nhận, thể nghiệm các quan hệ thẩm mỹ nhân sinh.
Siddhattha "thấy" Khổ đế, Tập đế, tức cái Bi. Đây là điểm xuất phát của mỹ học Phật giáo. Nó vừa là một năng lực cảm nhận, thể nghiệm, lại vừa là một năng lực tư tưởng về sự giải phóng nhân sinh. Làm sao mà một hoàng tử sống trong nhung lụa, quyền uy... lại có thể cảm nhận được Khổ đế? Đây là cả một biện chứng pháp nội tại.
Siddhattha đã cảm nhận được cái "biện chứng sa đọa" của chính tầng lớp thống trị với tư cách là một người trong cuộc. Đại thi hào Nguyễn Du của chúng ta cũng đã viết Truyện Kiều bằng cảm hứng của một tâm hồn cảm nhận sâu sắc cái biện chứng nội tại này. Chúng ta hiểu vì sao mà truyện Kiều lại đậm đà một thẩm mỹ Phật giáo.
Trong cảm nhận "biện chứng sa đọa nội tại" của tầng lớp thống trị (chữ dùng của C.Mác), Siddhattha đã cảm nhận được cái lẽ bể khổ của con người. Nước mắt chúng sinh còn nhiều hơn cả nước của năm đại dương. Các tư tưởng Khổ khổ, Hành khổ, Hoại khổ là cái cơ sở của tư tưởng mỹ học Phật giáo. Điều này, các ông Mác Mule, Trêbátxki... đã nói tới trong những tác phẩm nghiên cứu uyên bác về Phật giáo của họ.
Cảm nhận biện chứng sa đọa nội tại có bao hàm một thái độ phủ định của con người ở trong tầng lớp thống trị đối với giai cấp thống trị. Như vậy, trong đồng cảm với kiếp sống con người, Siddhattha đã có một từ chối với sự thống trị- nguyên nhân cơ bản của Khổ.
Phần đã trình bày là tư tưởng của Phật giáo về thẩm mỹ cái bi kịch.
Đó là một hệ thống. Phật giáo đã trình bày phạm trù thẩm mỹ này như là một cấu trúc mâu thuẫn, mâu thuẫn giữa con người với hoàn cảnh, và mâu thuẫn nội tại trong một cá thể người chưa giác ngộ.
Niết bàn là giải pháp tuyệt đối cho bi kịch ấy.
Nhưng Niết bàn là gì?
Chốn ấy ở đâu?
Siddhattha chỉ ngón tay kỳ diệu của mình về Cái Đẹp. Vành trăng ấy chỉ gói trọn một chữ tâm. Có Tâm mới có Vô Ngã.
Tâm không tự có như một tiên thiên. Tâm là kết quả của một đại lực, đại hùng. Không loại trừ được cái Tập đế, cái Thường, cái Ngã, cứ sống mãi trong vòng Ngũ uẩn... nghĩa là, cứ sống trong tha hóa... thì "lòng đục", thấy sao được chữ Tâm. Tâm là kết quả của Diệt đế, Đạo đế.
Có một tiến trình đại dũng là để đi tới đại nhân, đại trí. Đó chính là logic mỹ học của nhân cách Phật giáo.
Chuyển hóa được từ phạm trù cái bi đến phạm trù cái Đẹp là do một lực lượng nội tại hùng hậu của chủ thể Phật giáo.
Cái bi không phải chỉ được chuyển hóa thành cái đẹp, mà còn được chuyển hóa thành phạm trù cái Trác tuyệt.
Phật giáo là ngón tay chỉ cho mỗi chúng sinh đang trầm luân chao đảo trong bể khổ, tự mình thiết lập được thế thăng bằng của cấu trúc cái Đẹp, tự mình vươn tới Cao cả. Đó là thẩm mỹ của Thiền.
Hạt nhân của hệ thống mỹ học Phật giáo là thẩm mỹ của tư tưởng nhân đạo hiện thực, nhân văn. Tất cả đó đều từ con người, vì con người và về với con người. Tất cả đều là mỹ học cho con người tại thế. Như vậy, Phật giáo đã cho chúng ta một định nghĩa về mỹ học.
c. Cái Đẹp Theo
Tinh Thần Phật Học (
Nói tóm lại Đẹp là sự vắng mặt của tham, sân, si,
sự đổ vỡ của thế giới hữu ngã. Tất cả những gì gây nên đau khổ, khi chúng bị đoạn
trừ là Niết-bàn, là Đẹp. Con người thoát khỏi tham lam, thù hận và si mê nhiều
chừng nào thì hạnh phúc càng gia tăng chừng đó. Niết-bàn sẽ hiện hữu ngay từ bước
khởi đầu và rồi thăng tiến theo lộ trình ấy cho đến lúc viên mãn. Niết-bàn, như
vậy là giác ngộ, giải thoát khỏi những cùm xích của ngã và ngã sở. Đó là cái Đẹp
Đẹp – tiếng gọi muôn thuở của con người, Đẹp
là gì? Làm thế nào để kiến tạo một cuộc sống Đẹp? Có thể nói, không hướng đến
cái Đẹp nhân loại không có sự phát triển, không có nền văn minh. Nhưng trong
lúc đi tìm cách giải đáp cho câu hỏi ấy đã có những cuộc nhấn chìm sinh mạng
cái Đẹp.
Theo dòng chảy triết họ Đông – Tây: thời tiền
Socrate, con người bị lãng quên, triết học đi tìm bản thể vũ trụ mang tính
thiên nhiên hơn, đến khi Socrate đặt phạm trù cái đẹp thì ông lại nhầm với cái
lợi. Quả thật, nếu gặp phải Dương Chu, há ông đã được một cái Đẹp vô cùng lớn –
cả thiên hạ; nhưng Dương Chu đã khẳn khái từ chối: "bạt nhất mao dĩ lợi
thiên hạ, ngã bất vi." Dẫu sao môn đệ nổi tiếng của ông là Platon, cũng đã
phủ định ông từ thuở ấy, với câu hỏi hóc búa: "Thưa Thầy! Cái sọt phân
cũng là cái đẹp." Socrate đành ngẩn ngơ. Nhưng cái sọt phân cũng Đẹp đấy!
Nếu ông ta không nhìn bằng hữu ngã lưỡng biên mà thấy "bản lai thường tự tịch
diệt tướng" và " thị pháp trú pháp vị" thì chắc chắn ông không
ngẩn ngơ như thế. Đến Platon, triết học rẽ sang một hướng khác, Platon bất lực
trước "dịch biến" của Héraclite và hiểu nhầm "hữu thể" của
Parmenide thì thế giới lý niệm của Platon xuất hiện. Bây giờ mọi hiện hữu dưới
mắt Platon chỉ là một ảo ảnh của thế giới lý niệm ấy. Một Thượng đế hiện hữu
trong triết học. Cả trường kỳ nhà thờ trung cổ, Chúa nắm quyền kiểm soát con
người. Ngay cả Aristote, Descarte, Kant, Hegel thì cũng là một thứ triết học bị
phóng thể: thay vì họ giúp con người suy nghĩ chính mình thì lại khuyến khích
quên mình mà lại đi tìm lẽ huyền vi của tạo hóa. Phải đến Marx, con người mới
có chỗ đứng, rất tiếc là chỉ đứng cho xã hội mà quên chỗ đứng chính mình. Và, nếu
xã hội cọng sản xuất hiện thì là bước đường cùng của nhân loại khi luật hủy thể
của ông được áp dụng một cách triệt để. Sau khi Kiekegaard cảnh tỉnh cái thôi
làm người của triết thuyết, tôn giáo; cũng như Nietzsche giết chết Thượng đế để
kéo con người xuống lại trần gian; và tiếp nối trường phái Hiện sinh xuất hiện
thì con người mới có chỗ đứng cho chính mình. Rất tiếc họ đặt con người đứng
trong chán chường với kẻ lạ mặt trong thế giới buồn nôn của cõi người ta . để rồi
khi giao cho họ tự quyết định thân phận của mình, thì con người lại tìm phương
thức tự tử hơn là tìm lại chính mình, chủ nghĩa cá nhân độc đoán ra đời. Ở
phương Đông, nền triết học được xem là hướng nội, nhưng Bà-la-môn giáo đưa con
người vào cơn ngủ say và triệt tiêu ý thức-ý thức cái để làm người lại bị chối
bỏ; làm sao còn là người! Và đạo Lão thì mơ màng cùng hồ điệp trong lẽ sống tự
nhiên. Thế nhưng:
"Lưu thủy há sơn vô
hữu ý
Bạch vân xuất tụ bổn vô tâm."
(Trần thái Tông)
Bạch vân xuất tụ bổn vô tâm."
(Trần thái Tông)
Con người không thể vô
tâm theo kiểu mây nước. Cuối cùng đạo Lão đành lánh đời để tìm cuộc sống bất tử
trong chốn bồng lai tiên cảnh. Tất cả đều bất thành.
Khi chưa có cái nhìn đúng về con người trên cơ sở Người thì không thể kiến tạo một cuộc sống Đẹp mang tính Người.
Trở lại Phật giáo, đạo Phật xây dựng một cuộc sống đẹp ngay trong chính con người và trên cõi đời này. Con người là đối tượng trung tâm của hệ thống giáo lý này. Đức Phật đã khuyến khích chúng ta "Hãy tự mình thắp đuốc mà đi, hãy nương tựa vào chính mình, vì Như lai chỉ là người dẫn đường." (kinh Niết-bàn). Đức Phật cũng dạy rất rõ là không thể tìm cảnh giới Niết-bàn (cuộc sống đẹp) bên ngoài con người và cõi người.
"Này hiền giả, ta tuyên bố rằng tại chỗ nào không bị sanh, không bị già, không bị chết, không có từ bỏ đời này, không khởi lên đời khác thời không thể đi đến để thấy, để biết, để đạt đến chỗ tận cùng của thế giới. Nhưng này hiền giả, trong cái thân dài mấy tấc này, với những tưởng, những tư duy của nó, ta tuyên bố về thế giới, tập khởi của thế giới, thế giới đoạn diệt và con đường đưa đến thế giới đoạn diệt." (Thích Minh Châu dịch, Tăng chi I)
Thế giới đoạn diệt ở đây, hiểu như là sự đoạn tận toàn bộ khổ đau; Niết-bàn. Như vậy, Niết-bàn không ở đâu xa mà ngay trong con người và thế giới người. Câu chuyện con chồn hoang trong công án của ngài bách Trượng là một cảnh tỉnh cho ai tìm Niết-bàn bên ngoài cuộc đời này.
Đồng thời giáo lý duyên khởi cho ta cái nhìn đúng về con người và xã hội của nó. Tất cả quan hệ trong mối tương quan duyên khởi, không đẳng lập và cũng không đồng nhất mà là biện chứng trong thống nhất. Với nguyên lý:
Khi chưa có cái nhìn đúng về con người trên cơ sở Người thì không thể kiến tạo một cuộc sống Đẹp mang tính Người.
Trở lại Phật giáo, đạo Phật xây dựng một cuộc sống đẹp ngay trong chính con người và trên cõi đời này. Con người là đối tượng trung tâm của hệ thống giáo lý này. Đức Phật đã khuyến khích chúng ta "Hãy tự mình thắp đuốc mà đi, hãy nương tựa vào chính mình, vì Như lai chỉ là người dẫn đường." (kinh Niết-bàn). Đức Phật cũng dạy rất rõ là không thể tìm cảnh giới Niết-bàn (cuộc sống đẹp) bên ngoài con người và cõi người.
"Này hiền giả, ta tuyên bố rằng tại chỗ nào không bị sanh, không bị già, không bị chết, không có từ bỏ đời này, không khởi lên đời khác thời không thể đi đến để thấy, để biết, để đạt đến chỗ tận cùng của thế giới. Nhưng này hiền giả, trong cái thân dài mấy tấc này, với những tưởng, những tư duy của nó, ta tuyên bố về thế giới, tập khởi của thế giới, thế giới đoạn diệt và con đường đưa đến thế giới đoạn diệt." (Thích Minh Châu dịch, Tăng chi I)
Thế giới đoạn diệt ở đây, hiểu như là sự đoạn tận toàn bộ khổ đau; Niết-bàn. Như vậy, Niết-bàn không ở đâu xa mà ngay trong con người và thế giới người. Câu chuyện con chồn hoang trong công án của ngài bách Trượng là một cảnh tỉnh cho ai tìm Niết-bàn bên ngoài cuộc đời này.
Đồng thời giáo lý duyên khởi cho ta cái nhìn đúng về con người và xã hội của nó. Tất cả quan hệ trong mối tương quan duyên khởi, không đẳng lập và cũng không đồng nhất mà là biện chứng trong thống nhất. Với nguyên lý:
"Cái này có, cái kia
có
cái này không, cái kia không
cái này sanh, cái kia sanh
cái này diệt, cái kia diệt."
(Thích Minh Châu dịch, Trung bộ I)
cái này không, cái kia không
cái này sanh, cái kia sanh
cái này diệt, cái kia diệt."
(Thích Minh Châu dịch, Trung bộ I)
Đó là cái nhìn về con người.
Và khi hệ thống này cho ta hiểu chữ Buddha: Giác với ba nghĩa: tự giác, giác
tha, giác hạnh viên mãn, thì con người càng tăng thêm giá trị của mình. Tinh yếu
của Phật giáo ở trong chữ Giác này.
Giáo lý duyên khởi được trình bày không nhằm lý giải vũ trụ quan cũng như nhận thức luận, mà nó cung cấp một cái nhìn vô ngã – không tự tánh – không tánh trong mọi hiện hữu, mọi hiện tượng giới. Từ đây kiến tạo con đường giải thoát, an lạc – xây dựng cuộc sống Đẹp, Niết-bàn. Niết-bàn là cứu cánh tối hậu của thế giới quan Phật giáo. Đó là cái Đẹp nhìn từ góc độ thẩm mỹ. Nhưng phải khẳng định từ đầu Niết-bàn không phải là nơi chốn, do vậy, những từ nhập Niết-bàn hay cõi Niết-bàn nếu không hiểu thì dễ gây ngộ nhận. Vì Niết-bàn chẳng từ đâu đến cũng chẳng đi về đâu (vô sở tùng lai diệc vô sở khứ – kinh Kim Cang).
Cái Đẹp thể hiện trong tư tưởng Phật học như thế nào? Chúng ta thử tìm hiểu hai phạm trù: Diệt đế và Đạo đế.
Giáo lý duyên khởi được trình bày không nhằm lý giải vũ trụ quan cũng như nhận thức luận, mà nó cung cấp một cái nhìn vô ngã – không tự tánh – không tánh trong mọi hiện hữu, mọi hiện tượng giới. Từ đây kiến tạo con đường giải thoát, an lạc – xây dựng cuộc sống Đẹp, Niết-bàn. Niết-bàn là cứu cánh tối hậu của thế giới quan Phật giáo. Đó là cái Đẹp nhìn từ góc độ thẩm mỹ. Nhưng phải khẳng định từ đầu Niết-bàn không phải là nơi chốn, do vậy, những từ nhập Niết-bàn hay cõi Niết-bàn nếu không hiểu thì dễ gây ngộ nhận. Vì Niết-bàn chẳng từ đâu đến cũng chẳng đi về đâu (vô sở tùng lai diệc vô sở khứ – kinh Kim Cang).
Cái Đẹp thể hiện trong tư tưởng Phật học như thế nào? Chúng ta thử tìm hiểu hai phạm trù: Diệt đế và Đạo đế.
DIỆT ĐẾ: CÁI ĐẸP
Diệt đế: dịch nghĩa từ nguyên chữ: Nirbbana;
dịch âm: Niết-bàn. Vậy Niết-bàn là gì? Hay hỏi cách khác Đẹp theo Phật học là
gì? Một câu hỏi ra vẻ đơn giản và khá tự nhiên, nhưng càng trả lời nhiều thì
càng nhiều rắc rối. Vì rằng, Niết-bàn đơn giản, chúng ta chưa có kinh nghiệm
này. Câu chuyện ngụ ngôn Rùa và Cá vẫn là một minh họa sống động cho kết luận
này. Làm sao cá hiểu nổi khái niệm đất liền là gì! Dù rùa có dùng hữu ngôn hay
vô ngôn thì cá cũng đành chịu thôi! Chúng ta, cũng vậy, không thể nào hiểu Niết-bàn
là gì khi chưa thật chứng Niết-bàn. Ngôn ngữ không phải bất lực trong diễn đạt
mà do chúng ta chưa có kinh nghiệm Niết-bàn, thì dù diễn đạt bằng phương tiện
nào cũng chỉ là một ảo giác về nó. Câu chuyện Rùa và Cá cốt để cảnh tỉnh cho những
ai đi tìm chân lý trên bình diện ngôn ngữ chứ không nói đến cái bất lực trong
cung cách diễn đạt của ngôn từ – tác dụng của ngôn từ là diễn đạt. Đó là cái dụng
chứ không phải bản thể, cái thể của ngôn ngữ cũng thường tự tịch diệt tướng;
thường vắng lặng.
Trên đại thể, nếu không muốn nói "Pháp nhĩ như thị" thì chúng ta vẫn có quyền giả lập Niết-bàn trên bình diện ngôn ngữ qua tương quan với khổ. Như vậy Niết-bàn là sự chấm dứt khổ; điều này quá rõ ràng trong các kinh. Nói theo Mỹ học là sự giải phóng triệt để cái bi. Niềm vui của sự chấm dứt khổ này mà kinh điển đã không ngớt thốt lên rằng: đó là hạnh phúc tối thượng và rằng bước đi hướng về mục đích ấy điều có niềm vui không bao giờ giảm:
Trên đại thể, nếu không muốn nói "Pháp nhĩ như thị" thì chúng ta vẫn có quyền giả lập Niết-bàn trên bình diện ngôn ngữ qua tương quan với khổ. Như vậy Niết-bàn là sự chấm dứt khổ; điều này quá rõ ràng trong các kinh. Nói theo Mỹ học là sự giải phóng triệt để cái bi. Niềm vui của sự chấm dứt khổ này mà kinh điển đã không ngớt thốt lên rằng: đó là hạnh phúc tối thượng và rằng bước đi hướng về mục đích ấy điều có niềm vui không bao giờ giảm:
"Vui thay, chúng ta
sống
Không bệnh, giữa ốm đau
Giữa những người bệnh hoạn
Ta sống không ốm đau."
(Thích Minh Châu dịch, kinh Pháp Cú, câu 198}
Không bệnh, giữa ốm đau
Giữa những người bệnh hoạn
Ta sống không ốm đau."
(Thích Minh Châu dịch, kinh Pháp Cú, câu 198}
Cái Đẹp theo Mỹ học được xác lập trên cơ chế
thăng bằng nội tại, hài hòa, một thể thống nhất giữa hình thức với nội dung thì
Niết-bàn là sự thể hiện hài hòa giữa nhận thức của chúng ta với quy luật, giữa
hành vi sống với nguyên tắc sống, giữa cảm thọ với những đối tượng cảm thọ. Nếu
cái bi theo Phật học là sự tha hóa bởi tham dục, vô minh thì cái Đẹp là sự đổ vỡ
toàn bộ thiết kiến của vô minh và tham dục. Như thế, Đẹp trong Phật học là sự
giải thoát mọi ràng buộc, chấp thủ về ngã và ngã sở:
"Không sở hữu, chấp
trước
Ta nói người, Niết-bàn."
(kinh Lăng Già. Trích Phật học khái luận T.C.T.)
Ta nói người, Niết-bàn."
(kinh Lăng Già. Trích Phật học khái luận T.C.T.)
Không còn tham dục khát
ái:
"Do đoạn tận khát ái
Được gọi là Niết-bàn." (sđd)
"Do đoạn tận khát ái
Được gọi là Niết-bàn." (sđd)
Là sự giác ngộ, thấy như thật, sự đổ vỡ của vô minh:
"Này Mahamati, Niết-bàn là thấy như thật."
(sđd)
Nói tóm lại Đẹp là sự vắng
mặt của tham, sân, si, sự đổ vỡ của thế giới hữu ngã. Tất cả những gì gây nên
đau khổ, khi chúng bị đoạn trừ là Niết-bàn, là Đẹp. Con người thoát khỏi tham
lam, thù hận và si mê nhiều chừng nào thì hạnh phúc càng gia tăng chừng đó. Niết-bàn
sẽ hiện hữu ngay từ bước khởi đầu và rồi thăng tiến theo lộ trình ấy cho đến
lúc viên mãn. Niết-bàn, như vậy là giác ngộ, giải thoát khỏi những cùm xích của
ngã và ngã sở. Đó là cái Đẹp. Một cái Đẹp như vậy thường được tán thán với những
ngôn từ diễm lệ:
"Một hoa sen bừng nở trong biển trí, không chút bợn phiền não, như vầng nhật nguyệt đánh bạt hết bóng vọng tưởng, như vầng trăng dập tắc lửa tội lỗi nung đốt người đời."
(Mã Minh, Phật sở hành tán, trích Thiền luận I, Trúc Thiên dịch)
Như thế cái Đẹp rực sáng trong nhân cách, trong nhận thức bằng sự phủ định tất cả những gì gây nên khổ đau. Tuy nhiên, những nghĩa trên về cái Đẹp chỉ cho ta khái niệm cái Đẹp trong tư cách tiêu cực. Chúng ta sẽ tìm hiểu thêm giá trị tích cực của nó được thể hiện trong tư tưởng Đại Thừa.
Vô minh là nguồn khổ. Chính vô minh tạo nên ảo giác về ngã rồi chấp thủ vào nó; dù chấp thủ vào Niết-bàn, Phật, thì vẫn là chấp thủ. Còn ý niệm trước tướng vào một cái gì thì vẫn bị trói buộc bởi ý niệm đó; còn bị vô minh chi phối. Do vậy, Niết-bàn ở đây được thể hiện trong tinh thần vô đắc, vô sở đắc.
"Một hoa sen bừng nở trong biển trí, không chút bợn phiền não, như vầng nhật nguyệt đánh bạt hết bóng vọng tưởng, như vầng trăng dập tắc lửa tội lỗi nung đốt người đời."
(Mã Minh, Phật sở hành tán, trích Thiền luận I, Trúc Thiên dịch)
Như thế cái Đẹp rực sáng trong nhân cách, trong nhận thức bằng sự phủ định tất cả những gì gây nên khổ đau. Tuy nhiên, những nghĩa trên về cái Đẹp chỉ cho ta khái niệm cái Đẹp trong tư cách tiêu cực. Chúng ta sẽ tìm hiểu thêm giá trị tích cực của nó được thể hiện trong tư tưởng Đại Thừa.
Vô minh là nguồn khổ. Chính vô minh tạo nên ảo giác về ngã rồi chấp thủ vào nó; dù chấp thủ vào Niết-bàn, Phật, thì vẫn là chấp thủ. Còn ý niệm trước tướng vào một cái gì thì vẫn bị trói buộc bởi ý niệm đó; còn bị vô minh chi phối. Do vậy, Niết-bàn ở đây được thể hiện trong tinh thần vô đắc, vô sở đắc.
"Vô hữu Niết-bàn Phật
vô hữu Phật Niết-bàn
Viễn ly giác sở giác
Thị nhị tất câu ly."
(kinh Lăng Già)
vô hữu Phật Niết-bàn
Viễn ly giác sở giác
Thị nhị tất câu ly."
(kinh Lăng Già)
Bỏ cho đến không có cái để
bỏ, để đạt đến cái giữ tất cả mà không giữ một cái gì. Do đó trú ở tất cả mọi
chốn mà không trú ở chỗ nào là Niết-bàn (Vô trú xứ Niết-bàn). Với vô chấp, vô
trú, vô trước tướng thì ở đâu cũng an nhiên tự tại, ở đâu cũng là đạo tràng
thanh tịnh; cao lâu tửu điếm giai vi thanh tịnh đạo tràng. Từ đó cho thấy một
tư tưởng vô cùng siêu phóng của Phật giáo. Đó là: sanh tử tức Niết-bàn, phiền
não tức Bồ-đề. Niết-bàn như thế là sự siêu việt lên mọi vọng tưởng lưỡng biên để
thành tựu tuệ giác Bát nhã. Bằng cái nhìn này thì thấy mọi hiện hữu đúng như nó
đang là; chư pháp thật tướng. Bây giờ tất cả mọi hiện tượng đúng nguyên hình của
nó. Nó như thế; như thị:
"Như thị tánh, như thị tướng, như thị thể, như thị lực, như thị tác, như thị nhân, như thị duyên, như thị quả, như thị báo, như thị đẳng mạt cứu cánh." (kinh Pháp Hoa)
Đẹp; Niết-bàn được định nghĩa qua sự vắng mặt những khái niệm: ly dục, ly tham, vô trước tướng, vô chấp ... như trên không có nghĩa là trạng thái hư vô của những người chủ trương hư vô chủ nghĩa. Nhưng, nếu những gì do vọng tưởng, tham dục tạo nên sự trói buộc trong đau khổ thì vắng mặt chúng là thoát khỏi sự trói buộc bức xúc và sự quấy nhiễu của nó. Nói cách khác là tham-sân-si không còn là đối tượng; "ba đào vô nộ tái không châu." (Nguyễn Công Trứ). Để đạt đến trình độ này, rõ ràng phải có một bản lĩnh tự nội vững chãi. Bản lĩnh ấy là một quá trình tự vượt thắng, một kỳ công của chiến tích loại trừ khổ đau; cái bi. Đây là cuộc chiến đấu không để lại dấu vết thành-bại, được-mất; chiến thắng chính bản thân mình. Một cuộc chiến đấu gay go gấp vạn lần ngoài bãi chiến trường. Lẽ thường chúng ta dễ dung túng mình, dễ tha hóa mình hơn là vượt thắng chính mình. Do vậy, tự chiến thắng mình là một chiến công được ca ngợi, được xứng tụng:
"Như thị tánh, như thị tướng, như thị thể, như thị lực, như thị tác, như thị nhân, như thị duyên, như thị quả, như thị báo, như thị đẳng mạt cứu cánh." (kinh Pháp Hoa)
Đẹp; Niết-bàn được định nghĩa qua sự vắng mặt những khái niệm: ly dục, ly tham, vô trước tướng, vô chấp ... như trên không có nghĩa là trạng thái hư vô của những người chủ trương hư vô chủ nghĩa. Nhưng, nếu những gì do vọng tưởng, tham dục tạo nên sự trói buộc trong đau khổ thì vắng mặt chúng là thoát khỏi sự trói buộc bức xúc và sự quấy nhiễu của nó. Nói cách khác là tham-sân-si không còn là đối tượng; "ba đào vô nộ tái không châu." (Nguyễn Công Trứ). Để đạt đến trình độ này, rõ ràng phải có một bản lĩnh tự nội vững chãi. Bản lĩnh ấy là một quá trình tự vượt thắng, một kỳ công của chiến tích loại trừ khổ đau; cái bi. Đây là cuộc chiến đấu không để lại dấu vết thành-bại, được-mất; chiến thắng chính bản thân mình. Một cuộc chiến đấu gay go gấp vạn lần ngoài bãi chiến trường. Lẽ thường chúng ta dễ dung túng mình, dễ tha hóa mình hơn là vượt thắng chính mình. Do vậy, tự chiến thắng mình là một chiến công được ca ngợi, được xứng tụng:
"Dầu tại bãi chiến trường
Thắng ngàn ngàn quân địch
Tự thắng mình, tốt hơn
Thật chiến thắng tối thượng."
(Thích Minh Châu dịch, Pháp cú kinh, câu 103)
Thắng ngàn ngàn quân địch
Tự thắng mình, tốt hơn
Thật chiến thắng tối thượng."
(Thích Minh Châu dịch, Pháp cú kinh, câu 103)
Nếu mỗi người trong chúng ta biết tự chiến thắng
mình thì xã hội sẽ trở nên hạnh phúc. Chiến thắng mình là chiến thắng của vô
ngã. Chiến thắng kẻ khác là chiến thắng của hữu ngã. Chiến thắng của vô ngã sẽ
đem lại sự tự tại, giải thoát, an lạc. Thực tại này thường được thể hiện qua
các từ ngữ chân thường; là siêu việt khái niệm thường và vô thường, chân lạc;
là siêu việt cả khổ lẫn vui, chân ngã; là siêu việt cả ngã lẫn vô ngã, chân tịnh;
là siêu việt cả nhiễm lẫn tịnh và nó còn mang nhiều tên gọi khác nhau tùy theo
phương diện hoạt động: Boddhi: Giác; chỉ vào sự xả trừ vô minh, Niết-bàn; chỉ
cho sự vắng bặt những nhiễu động của phiền não, tịch tịnh; chỉ cho sự đoạn trừ
tham dục, không; nghiêng về phần nhận thức hơn và trong nghĩa khác là con đường
giải thoát.
Con đường giải thoát là con đường đi đến Niết-bàn.
Nói theo Mỹ học là con đường đi đến cái Đẹp. Dây là phạm trù thứ tư trong Tứ
Thánh Đế.
ĐẠO ĐẾ: CON ĐƯỜNG THỂ HIỆN CÁI ĐẸP
Đạo là con đường thể hiện, là cách thể hiện.
Cần phải xác lập rằng: là cách chứ không phải nhân trong khái niệm nhân quả. Do
vậy, Đạo đế không phải là nhân để có quả Diệt đế. Ở tầng nghĩa thứ nhất Đạo là
phương thức chuyển hóa, chuyển hóa từ khổ đau đến an lạc; chuyển hóa từ cái Bi
sang cái Đẹp. Và tầng cao hơn, là lối sống như vậy không thể nào khác được. Sống
đúng như thế là Đẹp, là giải thoát, là Niết-bàn. Trong nghĩa này khái niệm nhân
quả trở nên lạc lõng và vô ngã không phải là Niết-bàn mà là con đường thi thiết.
Vẫn biết rằng không vô ngã thì không thể có Niết-bàn và đã niết-bàn thì vô ngã.
Thuật ngữ Đạo, chúng ta thường nghe tám vạn bốn ngàn pháp môn, là con số biểu
trưng cho những ngõ đường bị diệt căn cơ của từng đối tượng trên lộ trình Niết-bàn.
Tất cả những thi thiết cho sự giải phóng khổ đau, cho cái bi nội tại. Tuy ngõ
đường có đa thù nhưng đều lập cứ trên vô ngã. Bước đầu giải phóng ngã bằng tuệ
quán vô thường. Nhìn mọi hiện hữu bềnh bồng trên sinh-diệt, có-không, thay đổi
từng giay phút:
"Hãy nhìn như bọt nước
Hãy nhìn như cảnh huyễn
Quán nhìn đời như vậy
Thần chết không bắt gặp."
(Thích Minh Châu, Pháp cú kinh 170)
Hãy nhìn như cảnh huyễn
Quán nhìn đời như vậy
Thần chết không bắt gặp."
(Thích Minh Châu, Pháp cú kinh 170)
Hay như ngài Vạn Hạnh thiền sư đã "Thị đệ
tử" bằng thi kệ:
"Thân như điện ảnh hữu
hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô."
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô."
Với cái nhìn như vậy đưa chúng ta vào nhận thức
sâu lắng hơn; rõ ràng hơn về hiện hữu: Tuệ quán vô ngã:
"Tất cả pháp vô ngã
Với tuệ quán như vậy
Đau khổ được nhàm chán
Chính con đường thanh tịnh."
(Thich Minh Châu, kinh pháp cú 279)
Với tuệ quán như vậy
Đau khổ được nhàm chán
Chính con đường thanh tịnh."
(Thich Minh Châu, kinh pháp cú 279)
Bằng tuệ quán vô ngã, nhìn thấy thực tại rỗng
tếch trong dòng hiện hữu và biết rằng những mộng ảo của vinh hoa phú quý chỉ là
vô nghĩa trước ngày mai. Do vậy, ý niệm ngã và ngã sở không còn chân đứng thì
chấp thủ cái ta và cái của ta cũng không còn:
Hoàn toàn với danh sắc
Không chấp ta, của ta
Không chấp không sầu não
Thật xứng danh Tỉ kheo."
(sđd)
Không chấp ta, của ta
Không chấp không sầu não
Thật xứng danh Tỉ kheo."
(sđd)
Và sự đoạn trừ khát ái,
tham dục là con đường đưa đến an lạc:
Ai sống trong đời này
Ái dục được đoạn trừ
Sầu não khỏi người ấy
Như giọt nước lá sen."
(sđd)
Ai sống trong đời này
Ái dục được đoạn trừ
Sầu não khỏi người ấy
Như giọt nước lá sen."
(sđd)
Như giọt nước lá sen, một hiện hữu rực sáng bỡi
sự trơn tuột tất cả những vọng tưởng điên đảo, dục vọng si mê. Những con đường
Đạo nhắm mục đích đánh đổi si mê lầm lạc, tham dục vô lý ấy được gói trọn trong
Giới-Định-Tuệ. Đó là thế chân vạc; tương tác biện chứng trên lộ trình ấy. Giới
là nguyên tắc sống. Định là sự kiểm soát cảm thọ. Tuệ là cái nhìn đúng như thật
vào thực tại đang là: vô thường; vô ngã. Giới-Định-Tuệ như thế là sự hòa điệu;
hòa điệu giữa nhận thức chủ quan với thế giới khách quan (tuệ); giữa hành vi với
cuộc sống (giới); giữa nhận thức với cảm thọ và cả ý chí (định). Con đường Giới-Định-Tuệ
là con đường Trung đạo, vượt lên trên mọi khái niệm bằng phủ định Nhất thiết pháp
không; vô ngã, thiết kiến trên giả danh thành tựu ở Không tánh và phê bình
Không tánh là hủy diệt bằng vô tự tánh xây dựng trên giả danh thành tựu ở Trung
đạo đệ nhất nghĩa. Trung đạo là vận hành trên cơ chế thăng bằng, không thiên lệch.
Thiên lệch là rơi vào biên kiến, bên này là thường, bên kia là đoạn. Còn thường
đoạn là còn hạn hữu trong sanh tử, có không. Nói theo Mỹ học là còn bị tha hóa.
Con đường Trung đạo là con đường hủy diệt biên kiến đó; nó hủy luôn cả khái niệm
Trung đạo:
"Đại Thánh thuyết không
pháp
Dĩ ly chư kiến cố
Nhược phục kiến hữu không
Chư Phật bất năng hóa."
(Trung quán luận, Long Thọ)
Dĩ ly chư kiến cố
Nhược phục kiến hữu không
Chư Phật bất năng hóa."
(Trung quán luận, Long Thọ)
Giá trị của chữ Không này nó như ngọn lửa hủy
diệt tất cả những gì trên đường đi của nó; và khi không còn gì để hủy diệt thì
nó cũng không còn cơ sở để tồn tại. Trở về bản thể uyên nguyên của nó. Nó là
gì? Nói như ngài Đức Sơn thì trả lời sai bị ba mươi hèo, mà đúng cũng bị ba chục
hèo. Ai đủ sức lấy được cây gậy trong tay của ngài Đức Sơn thì hãy trả lời;
nhưng lấy được cũng bị ba chục hèo, mà lấy không được cũng bị ba chục hèo. Làm
sao đây? Còn nói như Lăng Già kinh thì:
Tri nhân pháp vô ngã
Phiền não cập dĩ diệm
Thường thanh tịnh vô tướng
Nhi hưng đại bi tâm."
Phiền não cập dĩ diệm
Thường thanh tịnh vô tướng
Nhi hưng đại bi tâm."
Trúc Thiên dịch:
"Khi quán tưởng pháp thân bằng trí và
bi, người ta sẽ thấy tất cả bản lai thanh tịnh, vô nhiễm (vô tướng); không tự
tánh (vô ngã); trong không có thế giới chủ quan (nhân) gây phiền não chướng,
ngoài không có thế giới khách quan (pháp) gây sở tri chướng (nhĩ diệm)"
(Thiền luận I)
Như vậy, thiết kiến vô thường, vô ngã là thiết kiến nhằm trả lại đúng vị trí cho con người, đưa con người vượt qua đau khổ để hưởng hạnh phúc tối thượng - Niết-bàn. Nói theo Mỹ học là giải phóng triệt để cái bi để trở về cái Đẹp. Một điều chúng ta cần lưu ý trong hệ thống này đòi ý thức tự nguyện, tự giác cao độ từ ngay bước khởi đầu. Ý nghĩa cứu độ trong Phật giáo chỉ có giá trị như là bản thiết kế của thầy mà học trò phải tự mình thi thiết.
Con đường vô ngã là con đường hủy diệt cái bi để kiến tạo cái Đẹp. Thế nhưng đã lắm người cả Đông lẫn Tây, Cổ cũng như Kim khi gặp phải giáo lý vô ngã này; và nhất là khi nó từ chối trả lời những câu hỏi mang tính siêu hình: hữu, vô, phi hữu phi vô, diệc hữu diệc vô; cũng như những lời dạy về khổ và con đường thoát khổ thì lâm vào ngộ nhận; cho rằng Phật giáo bi quan yếm thế, hư vô chủ nghĩa. Đặc biệt những ai tìm chân lý trên ngôn từ thì họ gặp phải những tuyên bố sấm sét làm nổ tung toàn bộ kiến thiết của ngôn từ: "từ lúc thành đạo đến nay ta chưa từng nói một lời." (kinh Niết-bàn) hay "bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền."; "dĩ tâm truyền tâm." ... thì ngộ nhận càng lún sâu vào vùng chỉ trích. Quả thật, những ai tư duy bằng hữu ngã, duy lý tìm một định nghĩa trên hệ thống này đều bất lực, bất thành. Vì rằng " tôn giáo khước từ mọi định nghĩa, vì định nghĩa là đặt hạn giới cho sự thăng hoa nguồn sống đạo." (Tuệ Sỹ dịch-Thiền luận II). Cho đến những câu hỏi đặt trọng tâm vào cốt tủy của hệ thống này thì được đón nhận với thái độ im lặng. Dù có hỏi thế nào là vô ngã. Sau này chư Tổ sư có trả lời nhưng các ngài trả lời một cách phi lý chẳng ăn nhằm vào đâu; nhưng có điều, cách trả lời ấy lại là một hấp lực tuyệt vời cho những ai thiết tha làm Người. Nếu hỏi thế nào là Phật, câu trả lời là:
Như vậy, thiết kiến vô thường, vô ngã là thiết kiến nhằm trả lại đúng vị trí cho con người, đưa con người vượt qua đau khổ để hưởng hạnh phúc tối thượng - Niết-bàn. Nói theo Mỹ học là giải phóng triệt để cái bi để trở về cái Đẹp. Một điều chúng ta cần lưu ý trong hệ thống này đòi ý thức tự nguyện, tự giác cao độ từ ngay bước khởi đầu. Ý nghĩa cứu độ trong Phật giáo chỉ có giá trị như là bản thiết kế của thầy mà học trò phải tự mình thi thiết.
Con đường vô ngã là con đường hủy diệt cái bi để kiến tạo cái Đẹp. Thế nhưng đã lắm người cả Đông lẫn Tây, Cổ cũng như Kim khi gặp phải giáo lý vô ngã này; và nhất là khi nó từ chối trả lời những câu hỏi mang tính siêu hình: hữu, vô, phi hữu phi vô, diệc hữu diệc vô; cũng như những lời dạy về khổ và con đường thoát khổ thì lâm vào ngộ nhận; cho rằng Phật giáo bi quan yếm thế, hư vô chủ nghĩa. Đặc biệt những ai tìm chân lý trên ngôn từ thì họ gặp phải những tuyên bố sấm sét làm nổ tung toàn bộ kiến thiết của ngôn từ: "từ lúc thành đạo đến nay ta chưa từng nói một lời." (kinh Niết-bàn) hay "bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền."; "dĩ tâm truyền tâm." ... thì ngộ nhận càng lún sâu vào vùng chỉ trích. Quả thật, những ai tư duy bằng hữu ngã, duy lý tìm một định nghĩa trên hệ thống này đều bất lực, bất thành. Vì rằng " tôn giáo khước từ mọi định nghĩa, vì định nghĩa là đặt hạn giới cho sự thăng hoa nguồn sống đạo." (Tuệ Sỹ dịch-Thiền luận II). Cho đến những câu hỏi đặt trọng tâm vào cốt tủy của hệ thống này thì được đón nhận với thái độ im lặng. Dù có hỏi thế nào là vô ngã. Sau này chư Tổ sư có trả lời nhưng các ngài trả lời một cách phi lý chẳng ăn nhằm vào đâu; nhưng có điều, cách trả lời ấy lại là một hấp lực tuyệt vời cho những ai thiết tha làm Người. Nếu hỏi thế nào là Phật, câu trả lời là:
"Búp măng trên đá
cao ba trượng
Cái chuổi lông rùa nặng mấy cân."
Cái chuổi lông rùa nặng mấy cân."
Hay một vị Tổ Việt Nam,
ngài Tử Dung trả lời:
"lung linh nước chảy
qua đèo
Ngựa đua dưới nước thuyền chèo trên non."
Ngựa đua dưới nước thuyền chèo trên non."
Khi ngài Liễu Quán hỏi:
"Xưa nay Phật Tổ
truyền trao
Rằng hay Phật Tổ truyền trao vật gì?"
Rằng hay Phật Tổ truyền trao vật gì?"
Những lý thuyết hoa mỹ có giá trị gì nếu
không thực hành:
"Như bông hoa tươi đẹp
Có sắc nhưng không hương
Cũng vậy lời nói khéo
Không làm sao kết quả."
(Thích Minh Châu, Pháp Cú kinh. 51)
Có sắc nhưng không hương
Cũng vậy lời nói khéo
Không làm sao kết quả."
(Thích Minh Châu, Pháp Cú kinh. 51)
Đặc biệt trong kinh Kim Cang, đức Phật chỉ thẳng
hạng người đó là tà đạo. Vì họ chỉ tìm lý thuyết, khái niệm:
"Nhược dĩ sắc kiến ngã
Dĩ âm thinh cầu ngã
Thị nhân hành tà đạo
Bất năng kiến Như lai."
Dĩ âm thinh cầu ngã
Thị nhân hành tà đạo
Bất năng kiến Như lai."
Chúng ta hãy nghe nhà triết học hiện sinh
Karl-Jaspers tâm sự:
"Muốn tham dự vào
chân lý của đức Phật, chúng ta phải từ bỏ mọi hiện thể của mình. Sự khác biệt
này không nằm trong những lập trường thời lý mà nằm trong toàn bộ quan niệm về
đời sống và cách thức suy tưởng."(trích lại tư tưởng Vạn Hạnh)
Thiết kiến của ngôn từ lắm lúc cũng đành bất
lực trong luận lý. Ngôn ngữ làm sao trả lời nổi những nghịch kiến: từ "tất
cả dân đảo Crète đều nói láo." của Epimenide sống ở Crète, thế kỷ VII B.C,
đến "mũi tên tung bay mà không di chuyển." của Zenon d’Elee và chàng
thanh niên nào đó "bị treo cổ mà vẫn sống." của Brouwer, hay "nhất
thiết pháp không." của Bồ tát Long Thọ. Bạn làm sao chia hết một cho ba bằng
số học; một dãy dài bất tận 0,333... Thế nhưng, đứa bé chưa từng học toán nó có
thể chia một cái bánh thành ba phần bằng nhau. Cũng thế, giáo lý Phật giáo là đến
để mà thực hành, thực nghiệm mới thấy giá trị thiết thực của nó:
"Như bông hoa tươi đẹp
Có sắc lại thêm hương
Cũng vậy lời khéo nói
Có làm có kết quả."
(Thích Minh Châu, Pháp cú kinh. 52)
Có sắc lại thêm hương
Cũng vậy lời khéo nói
Có làm có kết quả."
(Thích Minh Châu, Pháp cú kinh. 52)
Quả thật:
"Có gì trong một cái
tên đâu
Cái mà ta gọi đó là hoa hồng
Cho dù có gọi tên nào nữa
Vẫn tỏa mùi hương ngát dịu lòng."
(dịch từ, Ruhula, Buddha and His Teaching)
Cái mà ta gọi đó là hoa hồng
Cho dù có gọi tên nào nữa
Vẫn tỏa mùi hương ngát dịu lòng."
(dịch từ, Ruhula, Buddha and His Teaching)
Tất cả những gì được đề cập
trong hệ thống này, mục đích là nhằm kiến tạo con đường đưa đến cuộc sống hạnh
phúc, là nhắm vào thực trạng chúng ta đang hứng chịu để đoạn trừ nó. Tất cả những
gì Phật dạy là kinh mà kinh là phương tiện, không phải là cứu cánh; "Nhất
thiết tu-đa-la giáo như tu nguyệt chỉ." (Tất cả những lời Phật dạy như
ngón tay chỉ mặt trăng – kinh Lăng Nghiêm.) Đừng mãi mê theo ngón tay rồi không
thấy mặt trăng. Và khi đã thấy mặt trăng thì hãy quên ngón tay đi; vì "vì
chánh pháp còn bỏ huống chi là phi pháp." (kinh Xà Dụ). Do đó, Niết-bàn
khi được đề cập trong hệ thống này cũng chỉ là phương tiện thi thiết mà ở kinh
Lăng Già đức Phật đã dạy cho ngài Đại Huệ:
"Này Đại Huệ, kinh nói ra tùy căn cơ của chúng sanh nên không thể hiển thị được chân lý "Như thị"; lời nói hiển thị được cái như thật. Nó giống như dương diễm (mirage) phỉnh gạt lũ thú đang khát vọng tìm nước uống ở chỗ không có nước; cũng vậy, lời dạy của kinh nhằm thõa mãn trí tưởng tượng của phàm phu nên không hiển thị được thực tại, nên nương theo nghĩa, chớ chấp vào ngôn từ và giáo thuyết." (Trúc Thiên dịch – Thiền luận I)
Đó cũng là lý do tại sao chư Tổ thường nhắc nhở
"Này Đại Huệ, kinh nói ra tùy căn cơ của chúng sanh nên không thể hiển thị được chân lý "Như thị"; lời nói hiển thị được cái như thật. Nó giống như dương diễm (mirage) phỉnh gạt lũ thú đang khát vọng tìm nước uống ở chỗ không có nước; cũng vậy, lời dạy của kinh nhằm thõa mãn trí tưởng tượng của phàm phu nên không hiển thị được thực tại, nên nương theo nghĩa, chớ chấp vào ngôn từ và giáo thuyết." (Trúc Thiên dịch – Thiền luận I)
Đó cũng là lý do tại sao chư Tổ thường nhắc nhở
" Y kinh diễn nghĩa tam thế Phật oan
Ly kinh nhứt tự tức đồng ma thuyết."
Ly kinh nhứt tự tức đồng ma thuyết."
Niết-bàn, như thế là một quá trình luôn luôn
vượt qua; vượt qua những gì có thủ đắc. Cho đến cái vượt qua ấy cũng phải được
vượt qua; cũng có nghĩa rằng chẳng vượt qua đâu cả. Vì chưa từng bám trụ ở chỗ
nào thì làm gì có chuyện vượt qua. Tất cả đều duyên sinh vô ngã:
"Chư Phật lưỡng túc
tôn
Tri pháp thường vô tánh
Phật chủng tùng duyên khởi
Thị cố thuyết nhất thừa."
(kinh Pháp Hoa)
Tri pháp thường vô tánh
Phật chủng tùng duyên khởi
Thị cố thuyết nhất thừa."
(kinh Pháp Hoa)
Cho nên:
"Xuân đáo bách hoa
khai
Hoàng oanh đề liễu thượng."
Hoàng oanh đề liễu thượng."
Có thể nói rằng; sự chấm
dứt khổ, như đã trình bày ở trên đó là cái Đẹp theo thẩm mỹ Phật học mà các
kinh điển đều hiển thị; dù Nguyên thủy hay Đại thừa. Nhưng phải nói kinh Pháp
hoa đã hiẻn thị cái đẹp này sinh động nhất, qua hình tượng hoa sen. Hoa sen được
dùng làm biểu tượng để diễn đạt nội dung cái Đẹp. Đó là cái Đẹp của một cuộc sống
biết vận dụng tất cả những gì cho là ô trọc biến thành hương thơm ngát diệu tỏa
khắp muôn phương, là một nhân cách sống trong chốn bùn dơ nhưng không bị cấu
nghiễm bỡi bùn dơ. Không những thế còn đủ khả năng biến cấu uế thành thanh tịnh.
Một điều lý thú, nếu không có cái gọi bùn dơ ấy thì chắc chắn không có giá trị
của cái hương thơm. Sen làm nên bùn; bùn làm nên sen; sen với bùn không hai
không khác, để rồi sen và bùn thong dong đi vào cõi bất cấu bất tịnh; bất tăng
bất giảm. Đây là cái lí của sinh tử tức Niết-bàn,
Cái Đẹp Phật giáo như thế đó. Trong cuộc sống bình thường này và trong mỗi con người bình thường này. Đừng tìm đâu xa; vì tất cả chỉ là không tưởng. Hãy thành thật với chính mình thì sẽ biết mình là ai và phải làm như thế trong cuộc sống Người và kiếp Người.
Cái Đẹp Phật giáo như thế đó. Trong cuộc sống bình thường này và trong mỗi con người bình thường này. Đừng tìm đâu xa; vì tất cả chỉ là không tưởng. Hãy thành thật với chính mình thì sẽ biết mình là ai và phải làm như thế trong cuộc sống Người và kiếp Người.
d. Giá trị thẩm mỹ trong
giáo lý Vô thường - Vô ngã
Toàn bộ giáo lý Đạo Phật không ngoài Tứ Diệu Đế. Nhận chân được thế giới
vô thường, nhân sinh vô ngã là đã thấu triệt được hai phạm trù đầu tiên là khổ
đế và tập đế. Hai phạm trù này thuộc cái bi thẩm mỹ. Từ đó, định ra cho mình
một cách sống tích cực đễ đạt được bản lĩnh tự tại, an nhiên, lạc quan trong
cuộc sống. Điều này cũng có nghĩa hành giả đã chuyển hóa cái bi ấy thành cái
đẹp, cao cả để thực thi một quá trình "sống là cho, đâu chỉ nhận riêng
mình."
Xuân, Hạ,
Thu, Đông lần lượt dắt nhau qua lòng tạo vật, dòng sống vẫn tuôn trào bất tận.
Tuổi xuân phải nhường chỗ cho tuổi già và vẻ tươi mát của sương mai, biến mất
trước vừng hồng rực rỡ. Đó là quy luật tự nhiên và cuộc sống vận hành là thế.
Chúng ta không thể thay đổi bản chất của chúng mà chỉ có thể thay đổi quan điểm
của mình về cuộc sống. Khổ, vui từ nơi nhận thức mà có. Người đời sống trong lo
toan, chết trong sợ hãi vì ngộ nhận; người đạt đến giác ngộ, an vui tự tại nhờ
trí Bát-nhã, quán sát bản chất như thật của vạn pháp.
Bát-nhã là
trí tuệ, thuật ngữ Phật học dùng đễ chỉ trạng thái tâm linh siêu việt của con
người mà ta có thể xem là phạm trù "trác tuyệt" của mỹ học Phật Giáo.
Con đường đạt đến trí tuệ cao cả này là con đường thuần lý tánh, được chuyển
hóa từ "có" đến "không," từ "thường" đến "vô
thường," từ cái "ngã" đến "vô ngã." Chúng ta có thể đi
lần vào vùng sâu thẩm của ý thức, thầm lặng nhưng hùng tráng, đơn sơ mà trác
tuyệt của các Thiền Sư đễ hiểu rõ hơn tư tưởng thẩm mỹ trong vô thường, vô ngã
của Phật Giáo. Đối tượng thẩm mỹ của chủ thể thẩm mỹ là các Thiền Sư được cảm
nhận như một khoảng thời gian ngắn ngủi trong vòng quay vô tận của vũ trụ. Chỉ
một khoảng nhỏ ấy thôi bao hàm cả sự sống. Dưới mắt Thiền Sư Mãn Giác:
"Xuân
khứ bách hoa lạc
Xuân đáo
bách hoa khai"
(Xuân đi
hoa úa nhuỵ tàn
Xuân về
hoa nở dọc ngang đất trời)
Đó là quy
luật muôn thuở của tự nhiên. Như vậy, với thiền sư Mãn Giác "vô
thường" mới thật là "chơn thường."
Thế giới
quan của người liễu đạﯠlà vậy,
nhân sinh quan của các vị ấy thì sao? Hai câu thơ tiếp: "Sự trục nhãn tiền
quá / Lão đầu tùng thượng lai" nói lên cuộc sống con người cũng thay đổi
trong từng sát na sanh diệt. Nơi con người, không có một cái ngã thường hằng.
Như vậy, với tuệ nhãn, người kiến tánh thấy rõ " vô ngã" đích thực là
" chơn ngã."
Thấu triệt
"vô thường," "vô ngã," các vị thiền sư có một cách thế sống
tuyệt vời, hiện thân của cái đẹp toàn diện.
Đẹp trước
hết là sự thật. Cái đẹp chân chánh chỉ xuất hiện trên cơ sở sự thật. Người ta
gọi là thật khi nhận thức của chúng ta phù hợp với thự tại khách quan. Đó là sự
đồng điệu giữa ta và vũ tru,ài hòa như một nhạc khúc. Nắm chắc sự vận hành của
qui luật và sống đúng theo qui luật ấy, con người sẽ đạt được an lạc, đó là
đẹp. Trên tinh thần ấy, con người hành xử đúng theo chiều hướng phát triển của
lịch sử, và xã hội góp phần thúc đẩy xã hội tiến bộ, sáng tạo ra lịch sử làm
cho cuộc sống trở nên sinh động. Nơi nào có cuộc sống đang dạt dào, dù ở hiện
tượng hay còn tiềm ẩn nơi bản chất, nơi ấy cho ta khái niệm đẹp.
Tiếp nữa,
đẹp theo tinh thần Phật Giáo là cơ chế thăng bằng, thăng bằng với môi trường đễ
hòa vào thiên nhiên tuyệt mỹ, thăng bằng với nội tâm để có một bản lĩnh tự tại.
Trong cơ chế thăng bằng đó, các thiền sư đã chuyển giáo lý "vô thường,
"vô ngã" thâm nhập hoàn toàn vào những áng văn chương lấp lánh đầy
màu sắc triết học, mỹ học, thiền học, thiên nhiên và con người. Trần Nhân Tông
đã thấu triệt quy luật vận hành của vũ trụ:
"
Chúa xuân nay bị ta khám phá
Chiếu trải
giừơng thiền ngắm cảnh hồng"
Thiền sư
Pháp Loa thì "đã hết duyên trần thong tay đi."
Không tự
giam hãm mình trong bến tướng sanh, già, bệnh, chết. Thiền sư Mãn Giác cùng một
cách thế như vậy đã tạo cho mình sức cân bằng nội tại đến mức cao nhất. Đứng
trước vực thẳm của sanh tử, như cuộc du hành tự tại trước một mùa xuân thanh
bình. Trong phong thái đó, với một cành mai, một mùa xuân, một mái đầu, thiền
sư Mãn Giác cho ta thấy sự đến, đi của con người trước cuộc sống êm đềm như sự
đi qua và trở lại của một mùa xuân. Xuân này đến, hoa nở, hoa nở để rồi tàn.
Xuân sau về, hoa lại nở thôi. Tất cả đều mong manh như trò chơi của tạo hóa
nhưng bao giờ mất đi trong chuổi dài sanh diệt, diệt sanh. Do đó, có không,
còn, mất, sống, chết, thịnh, suy v.v. . . là những phạm trù đối đãi bất tận của
con người và cả thế giới trần gian này.
"Hạt
bụi nào hóa kiếp thân tôi,
đễ mai tôi
trở về cát bụi…"
Phạm trù
đẹp còn biểu hiện ở sự nhận thức một cách biện chứng về cuộc sống đang vận động
và phát triển. Trong ý nghĩa đó, thiền sư Mãn Giác rất lạc quan:
"Mạc
vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền
tạc dạ nhất chi mai"
(Chớ bảo
xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua
sân trước một cành mai).
Thế giới
thực chất là sự sinh sôi nảy nở. Cành mai nở tung ra trong đêm cuối xuân, chứng
tỏ điều gì, nếu không hàm chứa ý nghĩa tiến hóa sâu xa của cuộc sống qua cái
nhìn biện chứng của thiền, cái mới hình thành ngay trong lòng cái cũ, vận động
và phát triển theo quy luật đó là cái đẹp. Cái đẹp là bạn đồng hành với cuộc
sống đang vươn lên và ở đâu tìm thấy cái đẹp, ở đó biểu hiện những xu hướng cao
cả nhất của cuộc sống. Ở đây, thiền sư Mãn Giác là biểu tượng của con người đẹp
qua sự an tịnh, bình thản của Ngài. Chủ thể thẩm mỹ ở đây vượt khỏi cái bi, bi
kịch, bi hài. Tất cả những phạm trù ấy đã chuyển hóa, thăng bằng chỉ còn một dấu
ấn duy nhất, cái đẹp, cái trác tuyệt lồng lộng. Đó là ý chí, cách thế sống của
một con ngừơi đại đạo, một con người đẹp, con người đã thực sự hoàn chỉnh trong
lối sống của mình.
Cuối cùng,
mức độ cao nhất trong phạm trù cái đẹp là lòng vị tha. Đây là cái đẹp đến độ
viên mãn, cái đẹp vong thân, chỉ cống hiến mà không hưởng thụ, thể hiện đầy đủ
chất nhân văn của chủ nghĩa nhân đạo trong hệ thống Phật học. Nhiều thiền sư
đời Lý-Trần đã hy sinh trọn vẹn cuộc đời cho Đạo pháp và Dân tộc gần như quên
mình. Cả một đời lo cho nước cho dân và phụng sự Đạo pháp đến lúc viên mãn.
Suốt cuộc đời hoằng hóa độ sanh cũng là một quá trình chuyển hóa tâm thức tu
hành đễ rồi có được trạng thái quân bình tuyệt mỹ. Sự cân bằng đối vơi môi
trường và sự cân bằng nội tại.
Con người
chứng ngộ đượm nhuần chất thiền của giáo lý vô thường, vô ngã ấy đầy đủ nghị
lực, ý chí để có thể tự tại trước bao biến thiên của cuộc sống. Cân bằng với
môi trường và đạt đến bản lĩnh tự tại là thể hiện mặt "tịch" của cái
thể tánh chơn như, giác ngộ. Từ đó thực hành một nếp sống vị tha, biết đem cái
vô thường của bản thân, để phục vụ tha nhân đến mức quên mình, cống hiến cho
dòng chảy thường của cuộc sống. Nếp sống vị tha vong kỷ như cánh nhạn lướt trên
trời không vô ảnh, vô trung. Ấy là diệu dụng về phương diện "chiếu"
của thể tánh bát-nhã. Đến đây, giá trị thẩm mỹ, cái đẹp hoàn thiện của con
người, của triết lý sống tỏa lên ngời sáng bao hàm cả chơn và thiện. Thiết
tưởng không còn giá trị thẩm mỹ đẹp và trác tuyệt hơn?
Toàn bộ
giáo lý Đạo Phật không ngoài Tứ Diệu Đế. Nhận chân được thế giới vô thường,
nhân sinh vô ngã là đã thấu triệt được hai phạm trù đầu tiên là khổ đế và tập
đế. Hai phạm trù này thuộc cái bi thẩm mỹ. Từ đó, định ra cho mình một cách
sống tích cực đễ đạt được bản lĩnh tự tại, an nhiên, lạc quan trong cuộc sống.
Điều này cũng có nghĩa hành giả đã chuyển hóa cái bi ấy thành cái đẹp, cao cả
để thực thi một quá trình "sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình." Bản
chất của cái đẹp thật trong sáng và lành mạnh. Vì vậy, thật vô cùng tuyệt đẹp
trong định hướng sống, và tuyệt đẹp trước lẽ có - không.
Nhận xét
Đăng nhận xét