: Quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật : Thống nhất – Đấu tranh. 1) Khái Niệm 2) Quan hệ biện chứng 3) Ý nghĩa phương pháp luận 4) Phân tích ví dụ qua sự phát triển biểu hiện tập tính đẳng cấp xã hội của côn trùng đất.
Họ và tên: Hoàng Văn Thuận
Khoa: Triết Học – K62
Trường : ĐH SPHN
Giảng Viên; Gs. Ts. Vũ Quang Mạnh
Câu hỏi: Quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật : Thống nhất – Đấu tranh.
1) Khái Niệm
2) Quan hệ biện chứng
3) Ý nghĩa phương pháp luận
4) Phân tích ví dụ qua sự phát triển biểu hiện tập tính đẳng cấp xã hội của côn trùng đất.
1 Khái niệm:
Trong phép biện chứng, khái niệm mâu thuẫn dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất, đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập của mỗi sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật hiện tượng với nhau
Trong mỗi mâu thuẫn, các mặt đối lập vừa thống nhất với nhau vừa đấu tranh với nhau. Khái niệm thóng nhất của các mặt đối lập dùng để chỉ sự liên hệ ràng buộc, không tách rời nhau, quy định lẫn nhau của các mặt đối lập, mặt này lấy mặt kia để tồn tại. Sự thống nhất của các mặt đối lập cũng bao hàm sự đồng nhất của nó.
V.I.Lênin viết: “Sự đồng nhất của các mặt đối lập (“Sự thống nhất” của chúng. nói chung, nói như vậy có lẽ đúng hơn, tuy ở đây sự phân biệt giữa các từ đồng nhất và thống nhất không quan trọng lắm. Theo một nghĩa nào đó, cả hai đúng”) .
Khái niệm đấu tranh giữa các mặt đối lập dùng để chỉ khuynh hướng tác động qua lại, bài trừ, phủ định nhau của các mặt đối lập
Mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
2 Quan hệ biện chứng:
- Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan phổ biến:
Phương pháp siêu hình cho rằng không có mâu thuẫn trong mỗi sự vật hiện tượng, mà chỉ có sự khách nhau hoặc mâu thuẫn giữa các sự vật, hiện tượng với nhau, trong tư tưởng có thể có mâu thuẫn, nhưng một khi tư tưởng có mâu thuẫn thì đó là sai lầm, không triệt để.
Trái với phương pháp siêu hình, phép biện chứng duy vật khẳng định rằng mội sự vật và hiện tượng trên thế giới đều có mâu thuẫn bên trong, mỗi sự vật và hiện tượng đều là sự thống nhất của các mặt, các thuộc tính, các khuynh hướng đối lập nhau. Các mặt đối lập lại với nhau nhưng lại liên hệ ràng buộc với nhau thì tạo nên mâu thuẫn.
Mâu thuẫn chẳng những là một hiện tuượng khách quan mà còn là một hiện tượng phổ biến. Mâu thuẫn tồn tại khách quan trong mọi sự vật hiện tượng, trong suốt quá trình phát triển của mỗi sự vật hiện tượng. Không có sự vật, hiện tượng nào là không có mâu thuẫn, không lúc nào không có mâu thuẫn. Trong mỗi sự vật hay hiện tượng, nếu không có mâu thuẫn. Trong các sự vật , hiện tượng, nếu không có mâu thuẫn này, thì sẽ không có mâu thuẫn khác.
Ph. Ăng-ghen viết: “Bản thân sự vận động đã là một mâu thuẫn; ngay như sự di động một cách máy móc và đơn giản sở dĩ có thể thực hiện được cũng chỉ là vì một vật trong cùng một lúc vừa ở nơi này lại vừa ở nơi khác; vừa ở cùng một chỗ duy nhất lại vừa không ở chỗ đó”.
Khoa học hiện đại ngày càng phát triển, đi sâu tìm hiểu kết cấu vật chất đã chứng minh rằng thế giới vi mô là sự thống nhất giữa những thực thể có điện tích trái dấu, giữa hạt và trường, giữa hạt và phản hạt… Sự tác động qua lại của những mặt đối lập ấy là nguyên nhân của những quá trình xảy ra trong thế giới vi mô.
Ph. Ăng – ghen còn viết: “Nếu bản thân sự di động một cách máy móc đơn giản đã chứa đựng mâu thuẫn, thì tất nhiên những hình thức vận động cao hơn của vật chất và đặc biệt là sự thống nhất hữu cơ và phát triển của sự sống hữu cơ lại càng phải chứa đựng mâu thuẫn như vậy,… sựu sống trước hết ở chỗ mặt sinh vật trong mỗi lúc vừa là nó nhưng lại là một cái khác. Như vậy, sự sống cũng là một mâu thuẫn tồn tại trong bản thân các sự vật và các quá trình, tự đề ra và giải quyết không ngừng, và khi mâu thuẫn và khi mâu thuẫn đã hết thì sự sống cũng không còn nữa và cái chết xảy đến”.
Sinh vật học cũng đã chứng minh rằng mỗi sinh vật đều có sự thống nhất và các quá trình đối lập: đồng hóa và dị hóa, di truyền và biến dị. Mọi sinh vật tồn tại và phát triển là do quá trình trao đổi chất diễn ra không ngừng. Sinh vật hấp thụ những chất cần thiết để bồi bổ cho cơ thể; mặt khác, lại bài tiết ra những chất cặn bã có hại. Nếu quá trình đồng hóa và dị hóa ngừng lại, nghĩa là nếu mâu thuẫn đó mất đi, thì sinh vật chết.
Xã hội loài người có những mâu thuẫn phức tạp hơn: mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng. Trong xã hội có giai cấp, có mâu thuẫn giữa các giai cấp đối lập như giữa chủ nô và nô lệ, giữa địa chủ và nông dân, giữa tư sản và vô sản,…
Trong tư duy con người cũng có mau thuẫn.
V.I. Lê – nin viết: “Nhận thức là sự tiến gần mãi mãi và vô tận của tư duy đến khách thể. Phản ánh của thế giới tự nhiên trong tư tưởng con người phải được hiểu không phải một cách “chết cứng”, “trừu tượng”, không phải không vận động, không mâu thuẫn mà là trong suốt quá trình vĩnh viễn của vận động, của sự nảy sinh mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn đó”.
Sự phát triển của nhận thức loài người là quá trình giải quyết những mâu thuẫn giữa chủ quan và khách quan, giữa chân lý và sai lầm, giữa tư tưởng tiến bộ và tưởng lạc hậu,…
- Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
Mỗi sự vật hay hiện tượng là một thể thống nhất bao gồm những mặt, những thuộc tính, những khuynh hướng trái ngược nhau, hợp thành mâu thuẫn của sự vật. Mỗi một mâu thuẫn là sự thống nhất của hai mặt đối lập, liên hệ với nhau, ràng buộc lẫn nhau, quy định lẫn nhau. Mỗi mặt lại lấy mặt đối lập với mình làm tiền đề tồn tại cho mình, không có mặt này thì không có mặt kia. Ví dụ: cực bắc và cực nam trong nam châm, giai cấp tư sản và giai cấp vô sản trong xã hội tư bản. Đó là nội dung khái niệm ‘thống nhất” của các mặt đối lập.
Sự thống nhất của các mặt đối lập không tách rời sự đâu tran giữa các mặt đối lập. Mỗi sự vật hay hiện tượng là một thể thống nhất của các mặt đối lập, các mặt đó liên hệ với nhau nhưng có khuynh hướng phát triển trái ngược nhau, nên chúng không nằm yên ở bên nhau mà chúng bài trừ lẫn nhau, phủ định lẫn nhau. Đó là sự đấu tranh của các mặt đối lập.
Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là hai xu hướng tác động khác nhau của các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn. Như vậy mâu thuẫn biện chứng cũng bao hàm cả “thống nhất” lẫn “đấu tranh” của các mặt đối lập. Sựu thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập không tách rời nhau, trong quá trình vận động, phát triển của sự vật. Sựu thống nhất gắn liền với sựu đứng im, với ổn định tạm thời của sự vật. Sự đấu tranh gắn liền với tính tuyệt đối của sự vận động và phát triển. Điều đó co nghĩa là: sự thống nhất của các mặt đối lập là tương đối, tạm thời, sự đáu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối.
V.I. Lê- nin : “Sự thống nhất (…)của mạt đối lập là có điều kiện, tạm thời, thoáng qua, tương đối. Sự dấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát triển,sự vận động là tuyệt đối”
Trong sự tác động qua lại của các mặt đối lập thì đấu tranh của các mặt đối lập quy định một cách tất yếu sự thay đổi của các mặt đang tác động và làm cho mâu thuẫn phát triển. Lúc đầu mới xuất hiện, mâu thuẫn chỉ sự khác nhau cưn bản, nhưng theo khuynh hướng trái ngược nhau. Sựu khác nhau đó cũng ngày càng phát triển và đi đến đối lập. Khi hai mặt đối lập đối lập xung đột gay gắt đã đủ điều kiện chúng sẽ chuyển hóa lẫn nhau, mâu thuãn được giải quyết. Nhờ đó mà thể thống nhất cũ được thay thế bằng thể thống nhất mới; sự vật cũ mất đi sự vạt mới ra đời thay thế.
V.I.Lê- nin viết: “Sự phát triển là một cuộc đấu tranh” giữa các mặt đối lập”.
Không có sự đấu tranh của các mặt đối lập thì không có sự xuất hiện phát triển và giải quyết mâu thuẫn, do đó cũng có sự chuyển hóa từ đấu tranh nay sang mâu thuẫn khác, không có sự chuyển hóa từ sự vật này sang sự vật khác.
Thực vậy, trong tự nhiên, sự “đấu tranh” của các mặt đối lập như điện tích âm và điện tích dương, sức hút và đẩy, đồng hóa và dị hóa, di truyền và biến dị…, đã làm cho thế giới vật chất vận động và phát triển từ thấp dến co, đơn giản đến phức tạp. Trong xã hội loài người, sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập: lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là nguồn gốc vận động, phát triển của xã hội từ hình thành hình thái kinh tế - xã hội này đến hình thành hình thái kinh tế - xã hội khác, cao hơn.
Sau khi đã phân tích thế nào là sự thống nhất và sự dấu tranh của các mặt đối lập, chúng ta cần hiểu câu nói sau đay của Lê – nin: “Sự thống nhất (phù hợp, đồng nhất, tác dingj ngang nhau) của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời, thoáng qua, tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối”.
Như trên đã nói, mỗi sự vật hay hiện tượng là sự thống nhất của cá mặt đối lập, những mặt đối lập này đáu tranh với nhau và giải quyết thì sự thống nhất của các mặt đối lập cũ được thay thế bằng sự thống nhất của mặt đối lập mới, các mặt đối lập mới này lại đấu tranh với nhau. Bất cứ sự thông nhất của các mặt đối lập cụ thể nào cũng có tính chất tạm thời, tương đối, nghĩa là nó chỉ tồn tại trong một thời gian nhất định. Đó chính là trạng thái đứng im tuyệt đối của các sựu vật và hiện tượng. Ở đây Lê – lin còn nói đến sự thống nhất của các mặt đối lập với ý nghĩa là sự phù hợp, tác dụng ngang nhau của chúng. Trong quá trình đấu tranh của hai mặt đối lập của một mâu thuẫn, đến một lúc nào đó, trong những điều kiện nhất định, có tể xảy ra sự phù hợp cảu hai mặt đối lập về một điểm nào đó hay sự ngang hàng nhau về sức, làm cho chưa bên nào thắng được bên nào. Rõ ràng là tình hình đó chỉ có tính chất tạm thời, thoáng qua, tương đối thôi.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập có tính chất tuyệt đối vì nó là nguồn gốc và động lực của sự tự thân vận động của các sự vật và hiện tượng, nó diễn ra liên tục trong suốt quá trình tồn tại ổn định cũng như sự chuyển hóa, nhảy vọt về vật chất của các sự vật và hiện tượng.
Như vậy là tính tương đối của sự thống nhất của các mặt đối lập nói lên rằng mọi sự vật chất tồn tại trong một thời gian nhất định, có phát sinh, phát triển rồi tiêu vong. Tính tuyệt đối của sự đấu tranh cảu các mặt đối lập nói lên sự vận động, phát triển không ngừng của sự vật trong thế giới vật chất, chuyển từ dạng này sang dạng khác một cách vô tận.
3 Ý nghĩa phương pháp luận
Để nhận thức đúng bản chát sự vật và tìm ra phương hướng và giải pháp đúng cho hôạt động thực tiễn phải đi sâu nghiên cứu phát hiện ra mâu thuẫn của sự vật. Muốn phát hiện ra mâu thuẫn phải tìm trong thể thống nhất những mặt, nhưng khuynh hướng trái ngược nhau, tức tìm ra những mặt đối lập và tìm ra những mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập đó. V.I.Lê – nin viết: “Sựu phân đôi củ cái thống nhất và sự nhận thức của các bộ phận của nó, đó là thực chất… của phép biện chứng”.
Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển của từng mâu thuẫn, phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển và vị trí của từng mặt đối lập, mối quan hệ tác động qua lại giữa chúng, điều kiện chuyển hóa lẫn nhau giữa chúng. Chỉ có như thế mới có thể hiểu được đúng mâu thuẫn của sự vật, hiểu đúng xu hướng vận động và phát triển và điều kiện để giải quyết mâu thuẫn.
Để thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát triển phải tìm mọi cách để giải quyết mâu thuẫn, không được điều hòa mâu thuẫn.
4. Phân tích quy luật cơ bản của phép bện chứng duy vật: Thống nhất – Đấu tranh qua ví dụ về tập tính dẳng cấp xã hội của côn trùng đất.
Khái niệm tập tính xã hội: Tập tính xã hội là tập tính sống thành bầy, thành đàn gồm các cá thể chung sống với nhau, có một số hoạt động chung và có sự phân chia thứ bậc trong đàn. Ví dụ một số loài: ong, kiến, mối…
Mối là một nhóm côn trùng có họ hàng gần với gián. Mối là nhóm côn trùng có đời sống xã hội cao, chúng sống tập trung thành vương quốc sớm nhất.
Mối là một nhóm côn trùng xã hội.
Đôi khi người ta còn gọi Mối là "Kiến trắng" nhưng thật ra chúng chẳng có họ hàng gì với nhau cả (thậm chí chúng còn tấn công nhau), chúng chỉ có mối quan hệ: đều là côn trùng. Mối được phân loại như là bộ cánh đều (danh pháp khoa học: Isoptera), tuy nhiên, dựa trên chứng cứ ADN, người ta thấy có sự ủng hộ cho một giả thuyết gần 120 năm trước, nguyên thủy dựa trên hình thái học, rằng mối có quan hệ họ hàng gần gũi nhất với các loài gián ăn gỗ (chi Cryptocercus). Gần đây, điều này đã dẫn tới việc một số tác giả đề xuất rằng mối nên được phân loại lại như là một họ duy nhất, gọi làTermitidae, trong phạm vi bộ Blattodea, một bộ chứa các loài gián. Tuy nhiên, phần lớn các nhà nghiên cứu ủng hộ biện pháp ít quyết liệt hơn và coi mối vẫn là nhóm có tên gọi khoa học Isoptera, nhưng chỉ là một nhóm dưới bộ trong gián thực thụ, nhằm bảo vệ phân loại nội bộ của các loài mối.
Hoạt động: Mối là côn trùng hoạt động ẩn náu theo đàn,mố thường sống thành tập đoàn lớn và xây tổ rất cao. Trên thế giới có hơn 200 loài mối, thường thấy nhất là mối nhà và mối đất cánh đen .Trong một tộc đoàn mối, mỗi nhóm cá thể thực hiện các chức năng riêng biệt được gọi là thành phần đẳng cấp. Đàn mối chỉ tồn tại khi có đủ các thành phần đẳng cấp. Một tộc đoàn mối thường có các đẳng cấp cơ bản sau:
1. Mối vua và mối chúa
Chuyên làm nhiệm vụ sinh sản. Mỗi tộc đoàn mối thường có 1 mối Vua và 1 mối Chúa, nhưng cũng có trường hợp trong một tộc đoàn mối có đến vài mối vua hoặc vài mối chúa. Mối Hậu có đầu nhỏ, bụng to (có thể dài từ 12-15cm), bộ phận sinh dục phát triển. Mối hậu có thể sống 10 năm; lúc đầu đẻ ít trứng, sau 4 - 5 năm, bộ phận sinh dục trưởng thành, mỗi ngày có thể đẻ ra 8.000 - 10.000 trứng.Mối chúa trưởng thành có một cơ thể khổng lồ giống như khúc lòng lợn chiều dài 10cm và là một cỗ máy đẻ thực sự. Đôi khi, nó còn đẻ tới hơn 30 trứng trong 1 phút. Nó không thể cử động được và được các mối thợ, dài khoảng 4mm chăm sóc và nuôi dưỡng. Mối chúa lớn gấp 300 các con mối khác.Mối chúa bắt đầu cuộc đời của mình như một con cái giống, với những chiếc cánh. Cùng với nhiều con cái khác và những con đực có cánh, nó bay ra khỏi tổ, nơi nó đã sinh ra. Đó là sự chia đàn. Nó hạ cánh ở một nơi nào đó, hai cánh bị mất đi và kết đôi với một con đực. Như vậy, chúng đã tạo ra được một tập đoàn mới. Sau lần cặp đôi và đẻ trứng đầu tiên, mối chúa chỉ đẻ 5 – 25 trứng, tùy theo loài. Sức sinh sản này tăng dần theo tuổi. Trong 1 tổ mối, có thể có nhiều mối chúa nên sức sinh sản của 1 đàn mối cực kỳ lớn. Một số loài có khả năng duy trì tuổi thọ của đàn tới gần 100 năm.
2. Mối thợ
Mối thợ thường nhỏ hơn các thành viên khác trong đàn nhưng số lượng lại đông hơn.Cơ thể nhỏ, các chi phát triển, mối thợ chiếm số đông , tới 70% - 80% trong đàn mối, gánh vác tất cả các công việc trong vương quốc mối như: kiếm và chế biến thức ăn, xây tổ, làm đường, chuyển trứng, nuôi mối con, hút nước....
Mối thợ dùng đồ ăn và bùn, qua gia công kỹ lưỡng dính vào nhau để xây tổ. Có tổ mối chính và tổ mối phụ, là nơi chủ yếu để tập đoàn mối hoạt động và sinh sống. Ở Châu Phi, có loài Mối xây tổ thành gò cao trên mặt đất tới hơn 10m và rất chắc chắn tựa như pháo đài, thành lũy vậy.
3. Mối lính
Mối lính lớn hơn nhiều và chúng có cái đầu rất to. Có bộ phận đầu và hàm răng phát triển, đầu có hạch độc có khả năng tiết ra chất có tính axit mỗi khi tham gia chiến đấu.Được phân hóa từ mối thợ và thường không đông có nhiệm vụ canh gác, đánh đuổi kẻ thù bảo vệ đàn. Cặp hàm trên của mối lính rất phát triển (là vũ khí lợi hại của chúng), có con còn có tuyến dịch hàm tiết ra chất nhũ trắng, khi đánh nhau có thể phun ra làm mê đối phương. Giác quan hai bên miện của mối lính rất phát triển, khi cần mối thợ phải cho mối lính ăn.
4. Mối cánh
Đây là loại mối sau khi lột xác một lần trở thành mối cánh. Hàng năm vào cuối mùa xuân khi áp suất không khí thích hợp hất là lúc trước khi mưa hoặc khi hoàng hôn chúng bay ra khỏi tổ hướng đến nơi có ánh sáng đèn. Sau 10 – 15 phút chúng rụng cánh. Một con đực tìm một con cái và tìm địa điểm thích hợp làm tổ mới.Đây là những cá thể sinh sản thành thục, sau khi bay phân đàn chúng cặp đôi tạo thành các tổ mối mới, độc lập với quần tộc cũ.
Vòng đời sinh trưởng của mối
Thức ăn chủ yếu của Mối là chất cellulose của gỗ. Mối thợ có giác quan hai bên miệng kiểu nhai đặc biệt. Chất cellulose của gỗ khó tiêu hóa nhưng đường ruột của mối có một loại siêu trùng roi tiết ra dung môi có thể phân giải cellulose thành đường cung cấp cho mối.
Sự tồn tại của một tập đoàn mối dựa trên sự phối hợp thực hiện các chức năng một cách tự giác của các đẳng cấp. Chúng đảm bảo cho sự cân bằng về dinh dưỡng, năng lượng, vi khí hậu trong tổ, chống lại kẻ thù, đảm bảo duy trì nòi giống. Chính vì có tập tính này nên mối được gọi là côn trùng xã hội.
Tổ mối được mối thợ làm từ đất trộn với nước bọt và phân. Tổ mối được bao bọc bởi 1 lớp tường thành bên ngoài rất cứng.
Giữa bức tường thành này và tổ mối được bố trí những đường dẫn cho phép không khí có thể lưu thông được. Phần trung tâm của tổ được chia thành vô số các phòng. Một phòng lớn được dành cho mối chúa liên tục đẻ trứng. Những phòng khác dành để nuôi ấu trùng và nhộng mối. Ngoài ra còn có các nhà kho để đồ dự trữ và các phòng chứa chất thải. Hình thái của tổ mối cũng rất đa dạng: hình quả lê (Macrotermes annandalei), hình tròn (Odontotermes hainanensis), hình vòm, hình tháp, hình phỏng theo dạng hòm, dạng nhà,…
Ở Việt Nam có khoảng 100 loài mối, thuộc các chi Coptotermes, Cryptotermes, Neotermes, Clyptotermes, Hodotermes, Reticulitermes, Shedorhinotermes, Macrotermes, Odontotermes,…Hàng năm, mối gây hại lớn cho các công trình kiến trúc, đê đập, kho tàng và cây trồng. Vì vậy, việc phòng trừ mối cần được quan tâm nhằm giảm thiểu những thiệt hại do mối gây ra.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Triết học Mác – Lê – nin, Chủ nghĩa duy vật biện chứng, Trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc – Khoa T.riết học, Nxb Sách giáo khoa mác – Lê – nin, Hà Nội – Năm 1985
2. Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê – nin, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Nxb Chính trị Quốc gia, Năm 2010.
3. Giáo trình triết học Mác – Lê – nin, Bộ Giáo dục và Đào tạo, nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội – 2005.
4. Trang web :http://www.khoahoc.com.vn/bandoc/ban-doc/36851_Tim-hieu-ve-loai-moi.aspx
5. Trang web : http://dietmoi.org.vn/tim-hieu-chung-ve-loai-moi/
6. Bài giảng Violet : http://baigiang.violet.vn/present/show?entry_id=1470359
Nhận xét
Đăng nhận xét