Làm thế nào để viết 1 ca khú phổ thơ
Trước tiên chúng ta phải:
- Chọn thể loại thơ:
+ Lục bát
+ Tự do
+ 5 chữ
..........
- Phân tích thơ: Có 3 phần này nằm trong cấu trúc âm nhạc như:
+ Hình thức 1 đoạn phát triển ( mệnh đề 1,2 + phát triển 2 mệnh đề + hết thúc)
( Trình bày + nội dung+ kết luận)
+ Hình thức 2 đoạn + coda ( A+ B+ coda)
+ Hình thức 3 đoạn ( A +B+ A+ coda) , riêng A+ coda phải có chất liệu mới.
- Tư duy âm nhạc dựa trên 3 yếu tố cơ bạn: Thang âm- điệu thức- âm vực giộng hát. Tùy theo tính chất của bài thơ để chọn thang âm, điệu thức.
- Chọn nhịp độ, tiết tấu và tiết nhịp cho phù hợp với nội dung bài thơ cần phổ.
Tổng quan về Lý thuyết viết lời cho một bản nhạc
1. Một cấu trúc thiết yếu của ca từ
Phải làm sao cho ca từ chứa đựng:
Một ý tưởng đặc sắc, không vay mượn
- Về "người thật việc thật", trong hoàn cảnh có thể tin được,
- Trình bày rõ nét một thái độ hay một xúc cảm mà thôi,
- Đủ kha khá nội dung để có thể viết thành nhạc,
- Dung hòa với lối suy nghĩ của quảng đại quần chúng,
- Viết sao cho người nghe thông cảm được với người hát,
- Viết sao cho hàng triệu người cứ muốn nghe đi nghe lại hoài.
Một cái tựa đáng nhớ
- Nghe một lần là nhớ tên bài liền,
- Tóm tắt được tinh thần của bản nhạc,
- Độc nhất vô nhị (đừng trùng tên với bài của người khác).
Lôi cuốn ngay từ đầu
- Lôi kéo người nghe vào bài nhạc,
- Thiết lập không gian, thời gian, hoàn cảnh, nhân vật chính chỉ trong vài câu đầu.
Một sự phát triển hợp lý
- Trình bày các yếu tố trong bài nhạc theo một thứ tự hợp lý,
- Phát triển một ý tưởng từ điều này, sang điều khác, để đi đến một cái gì đó rõ rệt,
- Phải có kết luận cho bài, dù nói rõ ra hay không.
Thể loại nhạc phù hợp
- bổ sung và thăng hoa mục đích của nhạc phẩm,
- Chuyển tải thành công những kỹ xảo mình mong muốn.
2. Ba loại cốt truyện
Có ba loại cốt truyện của một bài nhạc với độ phức tạp khác nhau:
1. Thái độ: viết về một tình cảm hoặc một thái độ, như bài Unforgettable.(Chẳng quên được em)
2. Tình huống: trong đó thái độ hay tình cảm được lồng vào trong một tình huống làm nó phức tạp thêm, như trong bài Torn between two lovers (Giằng xé giữa hai người tình)
3. Đầy đủ câu chuyện: trong đó các sự kiện được diễn tiến mạch lạc, có lúc khởi đầu, diễn tiến, và chung cuộc, như trong bài Coward of the county (tên hèn nhát của tỉnh.)
3. Các kỹ thuật chính để phát triển một bài nhạc
- Tạo một chuỗi sự kiện có chủ đích ( thí dụ như bài "The First Time I Ever Saw Your Face" - lần đầu anh nhìn thấy dung nhan của em): tường thuật các chi tiết theo thứ tự gia tăng của sự quan trọng của chúng.
- Báo trước ( thí dụ như bài "Class Reunion" - họp mặt bạn học cũ): khơi gợi một cốt truyện hấp dẫn trước khi sự kiện sẽ xảy ra.
- Tạo một hình tượng: ( như trong "Gentle on my mind" - nhẹ nhàng trong trí em): sắp xếp các hình ảnh sao cho chúng tạo nên một khung cảnh nhất định, theo ý tác giả.
- Trở về chủ đề ( như trong "In The Ghetto" - xóm của người da đen) : đem về cuối câu những chữ chính, câu chính, dòng hay đoạn chính đã dùng trước ở phần đầu của đoạn nhạc.
- Tạo mâu thuẫn ( như trong "Coming in and out of your life" - đến và đi khỏi đời em): tạo cho người hát có tâm trạng lạc lõng với các tâm trạng nội tại cũng như ngoại cảnh.
- Tạo căng thẳng có tính cách châm biếm, chõi ( như trong "Send in the Clowns" - gửi tới đây mấy thằng hề): tương phản những điều dường như, hay đã thường xảy ra trong quá khứ để tương phản một cách mỉa mai với hiện tại.
- Tạo ngạc nhiên (như trong "Harper Valley PTA") tạo cho người nghe sự ngạc nhiên ở phần cuối đoạn bằng cách dùng các kỹ thuật như "khám phá", "làm méo đi (ý nghĩa thường)", hay "quay vòng lại khởi thủy".
- Chơi chữ (như trong bài "On the Other Hand" -mặt khác): khai thác một câu hay chữ có nhiều nghĩa. (thí dụ như on the other hand, cả thành ngữ nghĩa là "mặt khác" nhưng chữ hand cũng là bàn tay, có thể dùng cho một nghĩa khác, cụ thể hơn, như đếm từng ngón tay, v.v. - Xem lời nhạc bài này ở cuối bài dịch - hoctro)
- Tạo cảnh trí (như trong "It was a very good year" - đó là một năm rất thành công) tạo ra các bức tranh vẽ phác, tượng trưng nhằm biểu tượng hóa ý nghĩa bài hát.
- Tạo cốt truyện như là một câu hỏi ( như trong "Guess who I saw today, my Dear?" - đố em hôm nay anh vừa gặp ai?): tạo ra một câu hỏi (chưa có câu trả lời) trong phiên khúc đầu, cho tới phiên khúc cuối mới biết lời giải.
- Tạo một đối thoại có tính tranh luận ( như trong "Baby, it's cold outside" Em cưng, ngoài kia trời lạnh lắm): dùng một cặp ca sĩ hát đôi để kịch hóa giữa những ý tưởng chọi nhau.
4. Sườn cốt truyện
Bốn thành tố chính của một cốt truyện bao gồm góc nhìn, suy tư (giọng), thời gian, và khung cảnh - quyện vào nhau để tạo nên xương sống của cốt truyện. Mỗi thành tố phải thật rõ ràng và xuyên suốt để tạo cho giai điệu một cái cột xương sống vững chãi.
Sau đây là 4 thành tố (xem thêm hình minh họa bản tiếng Anh)
Góc nhìn: Ngôi thứ nhất (Tôi, chúng ta) - Ngôi thứ nhì (em hay anh) - Ngôi thứ ba (anh ấy/cô ta/ họ)
Giọng: suy nghĩ - nói chuyện.
Thời gian: quá khứ - hiện tại - tương lai - đang liên tục diễn ra.
Khung cảnh: không có - một chốn nhất định - một chốn không rõ rệt như "đang ở đây" - các cảnh trí thay đổi - một cái xe đang chạy.
Sau đây là khái quát về những chọn lựa bạn có thể thực hiện.
Vì đa số các bài nhạc phổ thông đều thuộc loại bày tỏ thái độ hoặc một tình huống, đại đa số góc nhìn đều dùng ngôi thứ nhất và thứ nhì số ít: "tôi" và "em/anh". Dùng ngôi thứ ba số ít "nó, anh ấy, cô ta" khi muốn dẫn chuyện. Đa số lời nhạc để ca sĩ làm "tiếng nói suy nghĩ" - hoặc suy ngẫm về một kinh nghiệm hay một trạng thái tình cảm, hoặc nói về một người hiện vắng mặt, về một nơi chốn nào đó, hay về một điều gì đang diễn ra trong tâm tưởng. Lời nhạc cũng có thể thuộc dạng "đối thoại", trong đó ca sĩ mặt đối mặt và trò chuyện với nhân vật đối diện mà cô/anh đang muốn bày tỏ. Cái phương cách bạn xử lý một trong 4 yếu tố đã đề cập sẽ ảnh hưởng đến 3 yếu tố còn lại. Mục tiêu là dung hòa hết 4 yếu tố để tạo thành một lời nhạc xuyên suốt và mạch lạc. Tóm lại:
a.Để ý đến góc nhìn, suy tư, thời gian, và khung cảnh,
b. khi đã quyết định dùng cái gì thì đừng quên nó,
c. Nếu phải thay đổi, nhớ kể ra trong bài nhạc để người nghe hiểu rõ.
5. Khái quát về vần điệu
Vần điệu: định nghĩa: hai hay ba từ (hoặc cụm từ) được coi là có vần với nhau khi trong mỗi từ chứa một nguyên âm cuối và phụ âm cuối giống nhau, trong khi phụ âm trước âm cuối thì khác với phụ âm của âm cuối. Có ba loại vần: hoàn toàn - với dấu trọng âm chính, hoàn toàn - với dấu trọng âm phụ, và gần như hoàn toàn.
(Vì lối phân loại này theo Anh ngữ nên với tiếng Việt mình không áp dụng hoàn toàn được - tiếng Việt mỗi chữ chỉ có một âm tiết, thay vì một, hai, hay nhiều hơn như trong tiếng Anh. Xin xem kỹ hơn hình phần tiếng Anh để xem bà Davis phân loại ra sao. - hoctro)
6. Mười Nguyên Tắc Chính Để Viết Lời Nhạc
1. Đơn giản: giữ sao cho chỉ có một ý tưởng chính thôi, dẹp bỏ hết các chuyện phụ. Ta có thể tóm tắt được cốt chuyện của một bản nhạc viết giỏi chỉ trong một câu ngắn.
2. Sáng sủa: dùng những đại từ chỉ định để chỉ ra ai đang kể chuyện hay suy nghĩ những gì. Với những đại từ như anh ấy, cô ta, họ, hoặc nó, phải kê ra rõ ràng chúng ám chỉ ai. Nếu cốt chuyện thay đổi không gian, thời gian, hay góc nhìn, phải viết xuống thành lời để diễn tả sự thay đổi này.
3. Cô đọng: mỗi chữ trong bài đều phải có mục đích. Dẹp bỏ các từ sáo rỗng (rất, chỉ) các trợ động từ như chậm đi, buồn hơn hay những từ không cần thiết (mặt trời mọc buổi sáng)
4. Nhấn mạnh: dùng những chữ ngắn, chỉ có một âm. Để những chữ quan trọng vào cuối câu. Nên dùng những động từ thể chủ động chứ không ở thể bị động: viết "nụ hôn của em làm anh bị lừa" chứ không viết "anh bị lừa bởi nụ hôn của em"
5. Nhất quán: dùng tinh thần diễn đạt và văn phong như nhau từ đầu đến cuối bài. Dùng những chữ chính của đề tài như chữ "mưa" lúc nào cũng là "mưa" như mưa rơi thật, hay là luôn dùng như là một hình tượng (mưa = phiền muộn), đừng cho nghĩa này chạy qua nghĩa kia trong cùng bài nhạc. Luôn để lời nhạc có một nghĩa em (hay anh). Thí dụ như rtong bài Moon River, thì con sông là nghĩa "em" xuyên suốt bài hát.
6. Chặt chẽ, mạch lạc: mỗi phản ứng đều phải có lý do xảy ra trước đó. Giữ một trình tự thời gian hợp lý xuyên suốt bài hát: sáng-trưa-tối, cũng như một tình cảm tăng dần hay giảm dần hợp lý, thí dụ như "mỗi phút trong một giờ, mỗi giờ trong một ngày, mỗi ngày của một tuần"
7. Rõ rệt, đặc trưng: chọn một thứ đặc trưng như quả táo so với chung chung như trái cây; rõ rệt (những đóa hồng anh mang đến) thay vì trừu tượng (những điều nho nhỏ anh làm). Bày tỏ tình cảm rõ rệt bằng hành động thay vì kể về nó. Thí dụ như thay vì nó về một tình cảm là e thẹn, bẽn lẽn (shy), ta nên viết rằng "bỗng dưng em thích nhìn đôi giày em" (You take a sudden interest in your shoes.)
8. Lặp lại: để thỏa mãn nhu cầu của người nghe là họ cần ghi nhận lại những gì quen thuộc, lặp đi lặp lại các chữ hay câu quan trọng để nhấn mạnh chủ đề - nhất là nên lặp đi rồi lại lặp lại tựa bài.
9. Đồng nhất: trưng bày các phần tử của bài dựa theo sự quan trọng của các phần tử đó. Đặt các phần tử này vào trong không gian, thời gian, và hành động sao cho chúng hài hòa như một vật thể chung, nhằm tạo ra một ấn tượng nhất định.
10. Cảm giác thành thật: viết về nhữngi ình huống hay tình cảm bạn hiểu được. Không gì thay thế được tính chân thật: phải chân thật mới làm người ta tin được.
Tổng quan về Lý thuyết viết lời cho một bản nhạc
1. Một cấu trúc thiết yếu của ca từ
Phải làm sao cho ca từ chứa đựng:
Một ý tưởng đặc sắc, không vay mượn
- Về "người thật việc thật", trong hoàn cảnh có thể tin được,
- Trình bày rõ nét một thái độ hay một xúc cảm mà thôi,
- Đủ kha khá nội dung để có thể viết thành nhạc,
- Dung hòa với lối suy nghĩ của quảng đại quần chúng,
- Viết sao cho người nghe thông cảm được với người hát,
- Viết sao cho hàng triệu người cứ muốn nghe đi nghe lại hoài.
Một cái tựa đáng nhớ
- Nghe một lần là nhớ tên bài liền,
- Tóm tắt được tinh thần của bản nhạc,
- Độc nhất vô nhị (đừng trùng tên với bài của người khác).
Lôi cuốn ngay từ đầu
- Lôi kéo người nghe vào bài nhạc,
- Thiết lập không gian, thời gian, hoàn cảnh, nhân vật chính chỉ trong vài câu đầu.
Một sự phát triển hợp lý
- Trình bày các yếu tố trong bài nhạc theo một thứ tự hợp lý,
- Phát triển một ý tưởng từ điều này, sang điều khác, để đi đến một cái gì đó rõ rệt,
- Phải có kết luận cho bài, dù nói rõ ra hay không.
Thể loại nhạc phù hợp
- bổ sung và thăng hoa mục đích của nhạc phẩm,
- Chuyển tải thành công những kỹ xảo mình mong muốn.
2. Ba loại cốt truyện
Có ba loại cốt truyện của một bài nhạc với độ phức tạp khác nhau:
1. Thái độ: viết về một tình cảm hoặc một thái độ, như bài Unforgettable.(Chẳng quên được em)
2. Tình huống: trong đó thái độ hay tình cảm được lồng vào trong một tình huống làm nó phức tạp thêm, như trong bài Torn between two lovers (Giằng xé giữa hai người tình)
3. Đầy đủ câu chuyện: trong đó các sự kiện được diễn tiến mạch lạc, có lúc khởi đầu, diễn tiến, và chung cuộc, như trong bài Coward of the county (tên hèn nhát của tỉnh.)
3. Các kỹ thuật chính để phát triển một bài nhạc
- Tạo một chuỗi sự kiện có chủ đích ( thí dụ như bài "The First Time I Ever Saw Your Face" - lần đầu anh nhìn thấy dung nhan của em): tường thuật các chi tiết theo thứ tự gia tăng của sự quan trọng của chúng.
- Báo trước ( thí dụ như bài "Class Reunion" - họp mặt bạn học cũ): khơi gợi một cốt truyện hấp dẫn trước khi sự kiện sẽ xảy ra.
- Tạo một hình tượng: ( như trong "Gentle on my mind" - nhẹ nhàng trong trí em): sắp xếp các hình ảnh sao cho chúng tạo nên một khung cảnh nhất định, theo ý tác giả.
- Trở về chủ đề ( như trong "In The Ghetto" - xóm của người da đen) : đem về cuối câu những chữ chính, câu chính, dòng hay đoạn chính đã dùng trước ở phần đầu của đoạn nhạc.
- Tạo mâu thuẫn ( như trong "Coming in and out of your life" - đến và đi khỏi đời em): tạo cho người hát có tâm trạng lạc lõng với các tâm trạng nội tại cũng như ngoại cảnh.
- Tạo căng thẳng có tính cách châm biếm, chõi ( như trong "Send in the Clowns" - gửi tới đây mấy thằng hề): tương phản những điều dường như, hay đã thường xảy ra trong quá khứ để tương phản một cách mỉa mai với hiện tại.
- Tạo ngạc nhiên (như trong "Harper Valley PTA") tạo cho người nghe sự ngạc nhiên ở phần cuối đoạn bằng cách dùng các kỹ thuật như "khám phá", "làm méo đi (ý nghĩa thường)", hay "quay vòng lại khởi thủy".
- Chơi chữ (như trong bài "On the Other Hand" -mặt khác): khai thác một câu hay chữ có nhiều nghĩa. (thí dụ như on the other hand, cả thành ngữ nghĩa là "mặt khác" nhưng chữ hand cũng là bàn tay, có thể dùng cho một nghĩa khác, cụ thể hơn, như đếm từng ngón tay, v.v. - Xem lời nhạc bài này ở cuối bài dịch - hoctro)
- Tạo cảnh trí (như trong "It was a very good year" - đó là một năm rất thành công) tạo ra các bức tranh vẽ phác, tượng trưng nhằm biểu tượng hóa ý nghĩa bài hát.
- Tạo cốt truyện như là một câu hỏi ( như trong "Guess who I saw today, my Dear?" - đố em hôm nay anh vừa gặp ai?): tạo ra một câu hỏi (chưa có câu trả lời) trong phiên khúc đầu, cho tới phiên khúc cuối mới biết lời giải.
- Tạo một đối thoại có tính tranh luận ( như trong "Baby, it's cold outside" Em cưng, ngoài kia trời lạnh lắm): dùng một cặp ca sĩ hát đôi để kịch hóa giữa những ý tưởng chọi nhau.
4. Sườn cốt truyện
Bốn thành tố chính của một cốt truyện bao gồm góc nhìn, suy tư (giọng), thời gian, và khung cảnh - quyện vào nhau để tạo nên xương sống của cốt truyện. Mỗi thành tố phải thật rõ ràng và xuyên suốt để tạo cho giai điệu một cái cột xương sống vững chãi.
Sau đây là 4 thành tố (xem thêm hình minh họa bản tiếng Anh)
Góc nhìn: Ngôi thứ nhất (Tôi, chúng ta) - Ngôi thứ nhì (em hay anh) - Ngôi thứ ba (anh ấy/cô ta/ họ)
Giọng: suy nghĩ - nói chuyện.
Thời gian: quá khứ - hiện tại - tương lai - đang liên tục diễn ra.
Khung cảnh: không có - một chốn nhất định - một chốn không rõ rệt như "đang ở đây" - các cảnh trí thay đổi - một cái xe đang chạy.
Sau đây là khái quát về những chọn lựa bạn có thể thực hiện.
Vì đa số các bài nhạc phổ thông đều thuộc loại bày tỏ thái độ hoặc một tình huống, đại đa số góc nhìn đều dùng ngôi thứ nhất và thứ nhì số ít: "tôi" và "em/anh". Dùng ngôi thứ ba số ít "nó, anh ấy, cô ta" khi muốn dẫn chuyện. Đa số lời nhạc để ca sĩ làm "tiếng nói suy nghĩ" - hoặc suy ngẫm về một kinh nghiệm hay một trạng thái tình cảm, hoặc nói về một người hiện vắng mặt, về một nơi chốn nào đó, hay về một điều gì đang diễn ra trong tâm tưởng. Lời nhạc cũng có thể thuộc dạng "đối thoại", trong đó ca sĩ mặt đối mặt và trò chuyện với nhân vật đối diện mà cô/anh đang muốn bày tỏ. Cái phương cách bạn xử lý một trong 4 yếu tố đã đề cập sẽ ảnh hưởng đến 3 yếu tố còn lại. Mục tiêu là dung hòa hết 4 yếu tố để tạo thành một lời nhạc xuyên suốt và mạch lạc. Tóm lại:
a.Để ý đến góc nhìn, suy tư, thời gian, và khung cảnh,
b. khi đã quyết định dùng cái gì thì đừng quên nó,
c. Nếu phải thay đổi, nhớ kể ra trong bài nhạc để người nghe hiểu rõ.
5. Khái quát về vần điệu
Vần điệu: định nghĩa: hai hay ba từ (hoặc cụm từ) được coi là có vần với nhau khi trong mỗi từ chứa một nguyên âm cuối và phụ âm cuối giống nhau, trong khi phụ âm trước âm cuối thì khác với phụ âm của âm cuối. Có ba loại vần: hoàn toàn - với dấu trọng âm chính, hoàn toàn - với dấu trọng âm phụ, và gần như hoàn toàn.
(Vì lối phân loại này theo Anh ngữ nên với tiếng Việt mình không áp dụng hoàn toàn được - tiếng Việt mỗi chữ chỉ có một âm tiết, thay vì một, hai, hay nhiều hơn như trong tiếng Anh. Xin xem kỹ hơn hình phần tiếng Anh để xem bà Davis phân loại ra sao. - hoctro)
6. Mười Nguyên Tắc Chính Để Viết Lời Nhạc
1. Đơn giản: giữ sao cho chỉ có một ý tưởng chính thôi, dẹp bỏ hết các chuyện phụ. Ta có thể tóm tắt được cốt chuyện của một bản nhạc viết giỏi chỉ trong một câu ngắn.
2. Sáng sủa: dùng những đại từ chỉ định để chỉ ra ai đang kể chuyện hay suy nghĩ những gì. Với những đại từ như anh ấy, cô ta, họ, hoặc nó, phải kê ra rõ ràng chúng ám chỉ ai. Nếu cốt chuyện thay đổi không gian, thời gian, hay góc nhìn, phải viết xuống thành lời để diễn tả sự thay đổi này.
3. Cô đọng: mỗi chữ trong bài đều phải có mục đích. Dẹp bỏ các từ sáo rỗng (rất, chỉ) các trợ động từ như chậm đi, buồn hơn hay những từ không cần thiết (mặt trời mọc buổi sáng)
4. Nhấn mạnh: dùng những chữ ngắn, chỉ có một âm. Để những chữ quan trọng vào cuối câu. Nên dùng những động từ thể chủ động chứ không ở thể bị động: viết "nụ hôn của em làm anh bị lừa" chứ không viết "anh bị lừa bởi nụ hôn của em"
5. Nhất quán: dùng tinh thần diễn đạt và văn phong như nhau từ đầu đến cuối bài. Dùng những chữ chính của đề tài như chữ "mưa" lúc nào cũng là "mưa" như mưa rơi thật, hay là luôn dùng như là một hình tượng (mưa = phiền muộn), đừng cho nghĩa này chạy qua nghĩa kia trong cùng bài nhạc. Luôn để lời nhạc có một nghĩa em (hay anh). Thí dụ như rtong bài Moon River, thì con sông là nghĩa "em" xuyên suốt bài hát.
6. Chặt chẽ, mạch lạc: mỗi phản ứng đều phải có lý do xảy ra trước đó. Giữ một trình tự thời gian hợp lý xuyên suốt bài hát: sáng-trưa-tối, cũng như một tình cảm tăng dần hay giảm dần hợp lý, thí dụ như "mỗi phút trong một giờ, mỗi giờ trong một ngày, mỗi ngày của một tuần"
7. Rõ rệt, đặc trưng: chọn một thứ đặc trưng như quả táo so với chung chung như trái cây; rõ rệt (những đóa hồng anh mang đến) thay vì trừu tượng (những điều nho nhỏ anh làm). Bày tỏ tình cảm rõ rệt bằng hành động thay vì kể về nó. Thí dụ như thay vì nó về một tình cảm là e thẹn, bẽn lẽn (shy), ta nên viết rằng "bỗng dưng em thích nhìn đôi giày em" (You take a sudden interest in your shoes.)
8. Lặp lại: để thỏa mãn nhu cầu của người nghe là họ cần ghi nhận lại những gì quen thuộc, lặp đi lặp lại các chữ hay câu quan trọng để nhấn mạnh chủ đề - nhất là nên lặp đi rồi lại lặp lại tựa bài.
9. Đồng nhất: trưng bày các phần tử của bài dựa theo sự quan trọng của các phần tử đó. Đặt các phần tử này vào trong không gian, thời gian, và hành động sao cho chúng hài hòa như một vật thể chung, nhằm tạo ra một ấn tượng nhất định.
10. Cảm giác thành thật: viết về nhữngi ình huống hay tình cảm bạn hiểu được. Không gì thay thế được tính chân thật: phải chân thật mới làm người ta tin được.
Tổng quan về Lý thuyết viết lời cho một bản nhạc
1. Một cấu trúc thiết yếu của ca từ
Phải làm sao cho ca từ chứa đựng:
Một ý tưởng đặc sắc, không vay mượn
- Về "người thật việc thật", trong hoàn cảnh có thể tin được,
- Trình bày rõ nét một thái độ hay một xúc cảm mà thôi,
- Đủ kha khá nội dung để có thể viết thành nhạc,
- Dung hòa với lối suy nghĩ của quảng đại quần chúng,
- Viết sao cho người nghe thông cảm được với người hát,
- Viết sao cho hàng triệu người cứ muốn nghe đi nghe lại hoài.
Một cái tựa đáng nhớ
- Nghe một lần là nhớ tên bài liền,
- Tóm tắt được tinh thần của bản nhạc,
- Độc nhất vô nhị (đừng trùng tên với bài của người khác).
Lôi cuốn ngay từ đầu
- Lôi kéo người nghe vào bài nhạc,
- Thiết lập không gian, thời gian, hoàn cảnh, nhân vật chính chỉ trong vài câu đầu.
Một sự phát triển hợp lý
- Trình bày các yếu tố trong bài nhạc theo một thứ tự hợp lý,
- Phát triển một ý tưởng từ điều này, sang điều khác, để đi đến một cái gì đó rõ rệt,
- Phải có kết luận cho bài, dù nói rõ ra hay không.
Thể loại nhạc phù hợp
- bổ sung và thăng hoa mục đích của nhạc phẩm,
- Chuyển tải thành công những kỹ xảo mình mong muốn.
2. Ba loại cốt truyện
Có ba loại cốt truyện của một bài nhạc với độ phức tạp khác nhau:
1. Thái độ: viết về một tình cảm hoặc một thái độ, như bài Unforgettable.(Chẳng quên được em)
2. Tình huống: trong đó thái độ hay tình cảm được lồng vào trong một tình huống làm nó phức tạp thêm, như trong bài Torn between two lovers (Giằng xé giữa hai người tình)
3. Đầy đủ câu chuyện: trong đó các sự kiện được diễn tiến mạch lạc, có lúc khởi đầu, diễn tiến, và chung cuộc, như trong bài Coward of the county (tên hèn nhát của tỉnh.)
3. Các kỹ thuật chính để phát triển một bài nhạc
- Tạo một chuỗi sự kiện có chủ đích ( thí dụ như bài "The First Time I Ever Saw Your Face" - lần đầu anh nhìn thấy dung nhan của em): tường thuật các chi tiết theo thứ tự gia tăng của sự quan trọng của chúng.
- Báo trước ( thí dụ như bài "Class Reunion" - họp mặt bạn học cũ): khơi gợi một cốt truyện hấp dẫn trước khi sự kiện sẽ xảy ra.
- Tạo một hình tượng: ( như trong "Gentle on my mind" - nhẹ nhàng trong trí em): sắp xếp các hình ảnh sao cho chúng tạo nên một khung cảnh nhất định, theo ý tác giả.
- Trở về chủ đề ( như trong "In The Ghetto" - xóm của người da đen) : đem về cuối câu những chữ chính, câu chính, dòng hay đoạn chính đã dùng trước ở phần đầu của đoạn nhạc.
- Tạo mâu thuẫn ( như trong "Coming in and out of your life" - đến và đi khỏi đời em): tạo cho người hát có tâm trạng lạc lõng với các tâm trạng nội tại cũng như ngoại cảnh.
- Tạo căng thẳng có tính cách châm biếm, chõi ( như trong "Send in the Clowns" - gửi tới đây mấy thằng hề): tương phản những điều dường như, hay đã thường xảy ra trong quá khứ để tương phản một cách mỉa mai với hiện tại.
- Tạo ngạc nhiên (như trong "Harper Valley PTA") tạo cho người nghe sự ngạc nhiên ở phần cuối đoạn bằng cách dùng các kỹ thuật như "khám phá", "làm méo đi (ý nghĩa thường)", hay "quay vòng lại khởi thủy".
- Chơi chữ (như trong bài "On the Other Hand" -mặt khác): khai thác một câu hay chữ có nhiều nghĩa. (thí dụ như on the other hand, cả thành ngữ nghĩa là "mặt khác" nhưng chữ hand cũng là bàn tay, có thể dùng cho một nghĩa khác, cụ thể hơn, như đếm từng ngón tay, v.v. - Xem lời nhạc bài này ở cuối bài dịch - hoctro)
- Tạo cảnh trí (như trong "It was a very good year" - đó là một năm rất thành công) tạo ra các bức tranh vẽ phác, tượng trưng nhằm biểu tượng hóa ý nghĩa bài hát.
- Tạo cốt truyện như là một câu hỏi ( như trong "Guess who I saw today, my Dear?" - đố em hôm nay anh vừa gặp ai?): tạo ra một câu hỏi (chưa có câu trả lời) trong phiên khúc đầu, cho tới phiên khúc cuối mới biết lời giải.
- Tạo một đối thoại có tính tranh luận ( như trong "Baby, it's cold outside" Em cưng, ngoài kia trời lạnh lắm): dùng một cặp ca sĩ hát đôi để kịch hóa giữa những ý tưởng chọi nhau.
4. Sườn cốt truyện
Bốn thành tố chính của một cốt truyện bao gồm góc nhìn, suy tư (giọng), thời gian, và khung cảnh - quyện vào nhau để tạo nên xương sống của cốt truyện. Mỗi thành tố phải thật rõ ràng và xuyên suốt để tạo cho giai điệu một cái cột xương sống vững chãi.
Sau đây là 4 thành tố (xem thêm hình minh họa bản tiếng Anh)
Góc nhìn: Ngôi thứ nhất (Tôi, chúng ta) - Ngôi thứ nhì (em hay anh) - Ngôi thứ ba (anh ấy/cô ta/ họ)
Giọng: suy nghĩ - nói chuyện.
Thời gian: quá khứ - hiện tại - tương lai - đang liên tục diễn ra.
Khung cảnh: không có - một chốn nhất định - một chốn không rõ rệt như "đang ở đây" - các cảnh trí thay đổi - một cái xe đang chạy.
Sau đây là khái quát về những chọn lựa bạn có thể thực hiện.
Vì đa số các bài nhạc phổ thông đều thuộc loại bày tỏ thái độ hoặc một tình huống, đại đa số góc nhìn đều dùng ngôi thứ nhất và thứ nhì số ít: "tôi" và "em/anh". Dùng ngôi thứ ba số ít "nó, anh ấy, cô ta" khi muốn dẫn chuyện. Đa số lời nhạc để ca sĩ làm "tiếng nói suy nghĩ" - hoặc suy ngẫm về một kinh nghiệm hay một trạng thái tình cảm, hoặc nói về một người hiện vắng mặt, về một nơi chốn nào đó, hay về một điều gì đang diễn ra trong tâm tưởng. Lời nhạc cũng có thể thuộc dạng "đối thoại", trong đó ca sĩ mặt đối mặt và trò chuyện với nhân vật đối diện mà cô/anh đang muốn bày tỏ. Cái phương cách bạn xử lý một trong 4 yếu tố đã đề cập sẽ ảnh hưởng đến 3 yếu tố còn lại. Mục tiêu là dung hòa hết 4 yếu tố để tạo thành một lời nhạc xuyên suốt và mạch lạc. Tóm lại:
a.Để ý đến góc nhìn, suy tư, thời gian, và khung cảnh,
b. khi đã quyết định dùng cái gì thì đừng quên nó,
c. Nếu phải thay đổi, nhớ kể ra trong bài nhạc để người nghe hiểu rõ.
5. Khái quát về vần điệu
Vần điệu: định nghĩa: hai hay ba từ (hoặc cụm từ) được coi là có vần với nhau khi trong mỗi từ chứa một nguyên âm cuối và phụ âm cuối giống nhau, trong khi phụ âm trước âm cuối thì khác với phụ âm của âm cuối. Có ba loại vần: hoàn toàn - với dấu trọng âm chính, hoàn toàn - với dấu trọng âm phụ, và gần như hoàn toàn.
(Vì lối phân loại này theo Anh ngữ nên với tiếng Việt mình không áp dụng hoàn toàn được - tiếng Việt mỗi chữ chỉ có một âm tiết, thay vì một, hai, hay nhiều hơn như trong tiếng Anh. Xin xem kỹ hơn hình phần tiếng Anh để xem bà Davis phân loại ra sao. - hoctro)
6. Mười Nguyên Tắc Chính Để Viết Lời Nhạc
1. Đơn giản: giữ sao cho chỉ có một ý tưởng chính thôi, dẹp bỏ hết các chuyện phụ. Ta có thể tóm tắt được cốt chuyện của một bản nhạc viết giỏi chỉ trong một câu ngắn.
2. Sáng sủa: dùng những đại từ chỉ định để chỉ ra ai đang kể chuyện hay suy nghĩ những gì. Với những đại từ như anh ấy, cô ta, họ, hoặc nó, phải kê ra rõ ràng chúng ám chỉ ai. Nếu cốt chuyện thay đổi không gian, thời gian, hay góc nhìn, phải viết xuống thành lời để diễn tả sự thay đổi này.
3. Cô đọng: mỗi chữ trong bài đều phải có mục đích. Dẹp bỏ các từ sáo rỗng (rất, chỉ) các trợ động từ như chậm đi, buồn hơn hay những từ không cần thiết (mặt trời mọc buổi sáng)
4. Nhấn mạnh: dùng những chữ ngắn, chỉ có một âm. Để những chữ quan trọng vào cuối câu. Nên dùng những động từ thể chủ động chứ không ở thể bị động: viết "nụ hôn của em làm anh bị lừa" chứ không viết "anh bị lừa bởi nụ hôn của em"
5. Nhất quán: dùng tinh thần diễn đạt và văn phong như nhau từ đầu đến cuối bài. Dùng những chữ chính của đề tài như chữ "mưa" lúc nào cũng là "mưa" như mưa rơi thật, hay là luôn dùng như là một hình tượng (mưa = phiền muộn), đừng cho nghĩa này chạy qua nghĩa kia trong cùng bài nhạc. Luôn để lời nhạc có một nghĩa em (hay anh). Thí dụ như rtong bài Moon River, thì con sông là nghĩa "em" xuyên suốt bài hát.
6. Chặt chẽ, mạch lạc: mỗi phản ứng đều phải có lý do xảy ra trước đó. Giữ một trình tự thời gian hợp lý xuyên suốt bài hát: sáng-trưa-tối, cũng như một tình cảm tăng dần hay giảm dần hợp lý, thí dụ như "mỗi phút trong một giờ, mỗi giờ trong một ngày, mỗi ngày của một tuần"
7. Rõ rệt, đặc trưng: chọn một thứ đặc trưng như quả táo so với chung chung như trái cây; rõ rệt (những đóa hồng anh mang đến) thay vì trừu tượng (những điều nho nhỏ anh làm). Bày tỏ tình cảm rõ rệt bằng hành động thay vì kể về nó. Thí dụ như thay vì nó về một tình cảm là e thẹn, bẽn lẽn (shy), ta nên viết rằng "bỗng dưng em thích nhìn đôi giày em" (You take a sudden interest in your shoes.)
8. Lặp lại: để thỏa mãn nhu cầu của người nghe là họ cần ghi nhận lại những gì quen thuộc, lặp đi lặp lại các chữ hay câu quan trọng để nhấn mạnh chủ đề - nhất là nên lặp đi rồi lại lặp lại tựa bài.
9. Đồng nhất: trưng bày các phần tử của bài dựa theo sự quan trọng của các phần tử đó. Đặt các phần tử này vào trong không gian, thời gian, và hành động sao cho chúng hài hòa như một vật thể chung, nhằm tạo ra một ấn tượng nhất định.
10. Cảm giác thành thật: viết về nhữngi ình huống hay tình cảm bạn hiểu được. Không gì thay thế được tính chân thật: phải chân thật mới làm người ta tin được.
Vài Trao Đổi về Sáng Tác Ca Khúc
Vài Trao Đổi về Sáng Tác Ca Khúc
Hoàng Việt Khanh
Lời Tòa Soạn: Anh Hoàng Việt Khanh là một cộng tác viên về âm nhạc của tạp chí Non Sông Với mục đích phát huy khả năng sáng tác ca khúc cho những bạn yêu thích và bắt đầu bước vào con đường viết ca khúc, anh Hoàng Việt Khanh mong muốn được trao đổi cùng các bạn một số kinh nghiệm sáng tác của mình. Với đối tượng đông đảo độc giả, tác giả bài viết đã tránh viết chi tiết về những điều mang tính chất học thuật. Độc giả có thể liên lạc riêng với tác giả qua email: khanh@nonsong.org hoặc tìm hiểu thêm về các vấn đề của bài viết tại trang nhà của tác giả: http://www.csun.edu/~hbmen0241. Cần phải biết những điều căn bản gì để có thể viết một ca khúc?Theo tôi, bạn cần biết 3 điều căn bản: ký âm (solfège), hoà âm (harmonie), và sáng tác (composition). Đó là những vấn đề về kỹ thuật mà người viết nhạc cần biết; ngoài ra, bạn cần phải có một tâm hồn nhạy cảm với cuộc sống xung quanh, biết yêu thơ, văn, và kể cả hội họa v...v.
2. Như vậy, phải đến trường mới học sáng tác ca khúc được?Thông thường bạn phải học trong nhiều năm mới hiểu tường tận các kỹ thuật viết ca khúc. Tuy nhiên, bạn không phải chờ học xong các lý thuyết âm nhạc ở nhà trường rồi mới bắt đầu viết. Thật ra, nhà trường chỉ là nơi dạy cho bạn các kỹ thuật căn bản để sáng tác, còn sáng tác như thế nào thì hoàn toàn do sự yêu thích, tâm hồn và kinh nghiệm sống của bạn. Kinh nghiệm cho thấy có nhiều nhạc sĩ đã không trải qua trường lớp âm nhạc nào mà vẫn có những ca khúc có giá trị. Có người học xong đại học về sáng tác nhưng vẫn không viết được tác phẩm nào bởi vì họ áp dụng quá nhiều kỹ thuật và lý luận vào trong việc sáng tác. Tuy nhiên nếu bạn không tìm tòi và học hỏi thêm thì bạn không thể sáng tạo được, vì sau khi viết được vài bài hát, bạn sẽ bị bế tắc vì chỉ biết viết quanh quẩn trong một số đề tài với vài thủ pháp mà thôi.
3. Vậy thì học bằng cách nào nếu không đến trường?Có nhiều cách học "tại gia" nếu không đến trường: học hỏi các nhạc sĩ đàn anh, học qua sách báo v.v... Sau khi bạn viết được một ca khúc, bạn nên nhờ các nhạc sĩ có kinh nghiệm sáng tác xem lại tác phẩm của mình. Họ có thể sẽ chỉ ra các lỗi kỹ thuật về ký âm pháp, hòa âm hoặc sáng tác. Nhưng nên nhớ rằng tác phẩm đó là "của" bạn, không ai có thể sửa lại hoàn toàn, vì nếu không, bài hát đó không còn là do bạn viết nữa. Ngoài ra, một cách học khác là tìm cách phân tích các bài hát của người khác để học về cách phát triển về chủ điệu (motif), kiến trúc câu nhạc (phrase), đoạn nhạc (periode), cách kết thúc một câu nhạc, đoạn nhạc (cadence), cách chuyển âm (modulation), cách đặt lời cho bài hát, nghệ thuật phổ thơ, v.v... Các chi tiết này sẽ được trình bày trong một dịp khác.
4. Còn học qua sách báo thì sao? Nên đọc các sách nào?
Bạn có thể tìm đọc các sách về ký âm pháp, hòa âm, và sáng tác nhạc. Ở Việt nam, sách viết về sáng tác nhạc khá hiếm và phần lớn chỉ phổ biến trong các trường nhạc. hoặc một số ít người. Các sách này thường dựa vào các tài liệu của Pháp, Ý, và Nga. Nên tìm sách của các tác giả như Tiến Dũng (hòa âm), Hoàng Thi Thơ (sáng tác), Phạm Duy (biên khảo), v.v. Vài sách tiếng Pháp điển hình về sáng tác như Traité de composition musicale và Traité complet d'Harmonie (E. Durand), Cours de Composition musicale (Vincent d'Indy), v.v... Sách tiếng Anh thì có The Craft of Lyrics Writing và The Songwriter's Idea Book (David, Sheila), Writing Music for Hit Songs (Josefs, Jai), v.v. Bạn cũng có thể tham gia các discussion groups về âm nhạc trên Internet để học hỏi như: rec.music.makers.songwriting, rec.music.theory, v.v. Ngoài ra, bạn có thể mua các tạp chí như Musician, Performing Songwriter... để tìm hiểu thêm.
5. Có nên mua sách loại "Học viết nhạc trong vòng 7 ngày"?Theo tôi, không nên mua loại sách học viết nhạc trong vòng bảy ngày hoặc ngay cả một tháng, vì các loại sách này không chứa đủ thông tin cho một người viết nhạc. Tuy nhiên, bạn có thể đọc tham khảo để biết một cách khái quát.
6. Phải sử dụng nhạc cụ gì để viết ca khúc?Bạn có thể không cần biết bất cứ nhạc cụ nào mà vẫn có thể viết ca khúc. Tuy nhiên bạn nên biết ít nhất một nhạc cụ để giúp bạn trong việc thử lại bài hát hoặc hòa âm. Thông thường, các nhạc sĩ sử dụng piano hoặc guitar (phổ biến ở Việt nam) để viết ca khúc. Có nhạc sĩ dùng cả mandoline hoặc sáo (flute). Đối với các bạn mới bước vào lĩnh vực này, việc sử dụng nhạc cụ để viết ca k húc có thể ảnh hưởng đến giai điệu (mélodie) của bài hát.
7. Nên viết lời trước hoặc sau khi viết nhạc?Cách tốt nhất là viết cùng lúc cả nhạc và lời. Có một số nhạc sĩ viết lời sau khi viết xong một đoạn nhạc. Nên tránh viết lời trước khi viết nhạc, và truờng hợp viết lời trước chỉ xảy ra khi phổ thơ. Có một số nhạc sĩ chỉ chuyên viết phần nhạc, còn lời thì có người khác viếtù, như trường hợp của Elton John (viết nhạc) và Bernie Taupin (ca từ).
8. Làm sao phổ thơ?Phải mất khá nhiều bút mực để trả lời câu hỏi có tính khái quát này. Thơ Việt nam có qui luật bằng trắc nên phải thận trọng khi tìm âm thanh kết hợp với lời thơ. Không nên phổ những bài thơ lục bát hoặc thất ngôn bát cú vì nhạc của bạn dễ bị ảnh hưởng bởi nhạc của thơ. Có nhạc sĩ phổ nguyên bài thơ, có người chỉ lấy ý chính bài thơ để phổ. Trong trường hợp này, một số nhạc sĩ đã tìm cách phá bỏ kiến trúc của bài thơ tương tự như bạn phá bỏ kiến trúc của một lâu đài để dùng các phần vật liệu của lâu đài đó tạo dựng một lâu đài khác. Việc làm này đòi hỏi bạn có một ít kinh nghiệm, vì nếu không bạn sẽ phá vỡ đi cái tinh túy của bài thơ, và như vậy sẽ làm phiền lòng đến tác giả bài thơ rất nhiều. Ở đây, cũ ng xin nói thêm rằng, tâm lý chung, đa số các thi sĩ muốn thơ của mình được nguyên vẹn khi phổ nhạc. Tuy nhiên, không nhất thiết bạn phải làm điều đó, miễn là bạn biết vận dụng một cách sáng tạo bài thơ của họ, bởi vì sáng tạo là phải biết phá bỏ để tìm ra cái mới.
9. Viết lời ca như thế nào?Việc viết lời cho một ca khúc rất quan trọng đối với một nhạc sĩ sáng tác ca khúc (songwriter). Cũng như làm sao để phổ một bài thơ, đây cũng là một đề tài lớn để bàn đến. Nói vắn tắt, bạn nên viết làm sao để lời ca của bạn, khi tách riêng với phần nhạc, giống như lời của một bài thơ. Muốn viết lời ca hay, bạn cần đọc và tìm hiểu nhiều về thi ca, văn học, và cả hội họa. Các nhạc sĩ như Trịnh công Sơn, Phạm Duy, Văn Cao, v.v... là những nhạc sĩ có tài trong việc đặt lời cho ca khúc. Về mặt tâm hồn, lời ca phải súc tích, gợi cảm và chứa đựng một nội dung sâu sắc. Về mặt kỹ thuật, lời ca phải viết sao cho ca sĩ có thể diễn đạt, phát âm dễ dàng. Trong những số báo tới, tôi sẽ tìm cách trao đổi một vài ví dụ, rút ra từ kinh nghiệm viết của mình.
10. Nhạc sĩ phải hát hay?Không cần thiết như vậy. Có ba giai đoạn trong sáng tạo âm nhạc: sáng tác, biểu diễn và thưởng thức. Nhạc sĩ thường là người thực hiện giai đoạn đầu, còn ca sĩ là người sáng tạo lần thứ nhì, và người thưởng thức là người sáng tạo lần thứ ba. Tâm lý chung thường cho rằng nhạc sĩ phải là người hát hay, nhưng trong thực tế, rất ít nhạc sĩ có giọng hát tốt. Nếu bạn vừa viết nhạc, vừa trình bày được bài hát của mình với giọng hát hay thì điều này rất quí. Tôi khuyên bạn nên biết hát một chút. Giống như một kỹ sư thiết kế, ngoài việc biết vẽ bản vẽ, cần phải biết dùng máy móc để thực hiện bản vẽ của mình, nhờ đó mới có thể hướng dẫn tường tận cho người thợ gia công.
11. Có cần phải có cảm hứng để viết ca khúc?Đó là một chất xúc tác cần phải có để một tác phẩm có thể hình thành. Giống như làm thơ, viết văn hay vẽ tranh, v.v.. viết ca khúc là một loại lao động sáng tạo. Thông thường, người nhạc sĩ phải cưu mang, và trăn trở về một đề tài lấy từ trong cuộc sống hàng ngày. Đề tài này được thai nghén cho đến khi cảm hứng đến với người nhạc sĩ để cho tác phẩm được ra đời. Có khá nhiều định nghĩa và nghiên cứu về cảm hứng trong sáng tác, hay trong mỗi cá nhân. Rất tiếc phạm trù đó không thuộc về lĩnh vực của bài này.
12. Mất bao lâu để viết xong một ca khúc?Tùy vào độ chín mùi của đề tài, cảm hứng, và kinh nghiệm viết của tác giả mà thời gian ra đời của một tác phẩm có khác nhau. Có bài hát ra đời chỉ trong vòng vài tiếng, nhưng có bài phải mất vài ngày, thậm chí cả tháng hoặc năm.
13. Sau khi viết xong một bài hát, việc sửa lại ra sao?Đây là công việc được xem như là khô khan nhất với một số nhạc sĩ. Tuy nhiên sửa bài là công việc hết sức quan trọng trong sáng tác. Phương cách sửa bài thì tùy theo mỗi người. Có nhạc sĩ sửa bài hát của mình nhiều lần rồi mới đem "trình làng" đứa con tinh thần của mình. Có người, ngược lại, viết xong bài hát thì tìm cách phổ biến ngay, không cần phải sửa. Có người tự sửa lấy, có người nhờ các nhạc sĩ kinh nghiệm khác. Với người mới viết ca khúc, tôi khuyên nên dành nhiều thì giờ để tự xem xét lại bài hát của mình trước khi nhờ người khác hoặc đưa ra trước công chúng. Nên nhớ rằng tác phẩm của bạn là "đứa con" của bạn. Chỉ có bạn là người thương yêu nó nhất, và do vậy bạn cần phải "làm đẹp" cho nó trươ ùc khi giới thiệu với người khác. Sửa bài cũng chính là lúc mà bạn áp dụng các kiến thức, kinh nghiệm viết, và nhất là khả năng phê bình và lý luận về sáng tác.
14. Làm sao có bản quyền (copyright)?Để bảo vệ quyền lợi của tác giả, bạn cần đăng ký với cơ quan có thẩm quyền về bản quyền tại quốc gia của bạn. Nếu ở Hoa kỳ, lệ phí đăng ký thông thường khoảng $20 USD cho một hoặc nhiều bài hát. Bạn có thể liên lạc với địa chỉ sau đây: The Copyright Office, Library of Congress, Washington D.C., 20559 hoặc xin đơn qua số phone: 202-707-9100. Ngoài ra, để biết thêm tin tức về bản quyền, bạn có thể xem webpage ở địa chỉ sau đây: http://lcweb.loc.gov/copyright/
15. Làm thế nào để "trình làng" một bài hát?
Nhạc lý cho người viết nhạc 4
TRƯỜNG ĐỘ TƯƠNG ĐỐI:
1. Để ghi trường độ tương đối giữa các âm thanh, người ta dùng các dấu nhạc với 7 hình dạng khác nhau.
- Dấu tròn (whole)lâu bằng 2 dấu trắng (half)
- Dấu trắng (half) lâu bằng 2 dấu đen(quarter)
- Dấu đen (quarter) lâu bằng 2 dấu móc đơn (eighth)
- Dấu móc đơn (eighth) lâu bằng 2 dấu móc đôi (sixteenth)
- Dấu móc đôi (sixteenth) lâu bằng 2 dấu móc ba (thirty second)
- Dấu móc ba (thirty second) lâu bằng 2 dấu móc tư (sixty fourth)
Như vậy một dấu tròn : 2 trắng : 4 đen : 8 móc đơn : 16 móc đôi : 32 móc ba : 64 móc tư.
2. Dấu lặng : là những ký hiệu cho biết phải ngưng, không diễn tấu âm thanh trong một thời gian nào đó. Các dấu lặng trong thời gian tương ứng với dạng dấu nhạc nào, thì cũng có tên gọi tương tự.
3. Dấu chấm : là ký hiệu đi sau dấu nhạc, hoặc dấu lặng, có giá trị bằng nửa trường độ ký hiệu đi trước nó.
Thí dụ :
4. Dấu nối : là đường vòng cung nối liền nhiều dấu nhạc với nhau. Có 2 loại :
4.1. Dấu nối 2 dấu nhạc cùng cao độ làm kéo dài trường độ dấu nhạc đầu, bằng tổng số trường độ của cả hai dấu nhạc.
4.2. Dấu nối nhiều dấu nhạc khác cao độ (còn gọi là dấu luyến) cho biết phải diễn tấu các dấu nhạc đó liền tiếng với nhau.
5. Dấu lưu (Dấu miễn nhịp) : là nửa vòng cung nhỏ có một chấm ở giữa U đặt trên hoặc dưới ký diệu âm nhạc nào thì cho nó được kéo dài bao lâu tuỳ ý.
6. Ô nhịp : là phần khuông nhạc được giới hạn bởi 2 vạch nhịp.
Trong nhạc mới, thường người ta chia bài nhạc thành nhiều ô nhịp. Các ô nhịp có tổng số các ký hiệu bằng nhau. Muốn biết mỗi ô nhịp có trường độ bao nhiêu ta căn cứ vào số loại nhịp (số tiết nhịp) viết ở đầu bài nhạc, gọi tắt là số nhịp.
7. Số nhịp : là một phân số cho ta biết phải chia dấu tròn ra làm mấy phần, và tử số cho ta biết trong mỗi ô nhịp có mấy phần như vậy. Thí dụ 2/4 : dấu tròn chia làm 4 phần, mỗi phần bằng một dấu đen và trong mỗi ô nhịp ta có 2 dấu đen hoặc các ký hiệu tương đương hai dấu đen (xem thí dụ 9).
8. Phách : là đơn vị thời gian trong âm nhạc, giống như bước chân người đi trong không gian. Nhờ phách mà ta cảm nhận được sự chuyển động của âm thanh trong thời gian.
8.1. Phách chia 2 : là loại phách có thể chia ra 2 phần đều nhau.
Thí dụ : Trong loại nhịp 2/4, mỗi ô nhịp có hai phách, mỗi phách là 1 dấu đen. Dấu đen này có thể chia thành hai dấu móc đơn :
q = e e
Loại nhịp gồm phách chia 2 gọi là loại nhịp chia 2 (nhị phân) hoặc nhịp đơn.
8.2. Phách chia 3 : Là loại phách có thể chia ra 3 phần đều nhau.
Thí dụ : Trong loại nhịp 6/8 gồm hai phách, mỗi phách là 1 dấu đen chấm. Phách này có thể chia thành 3 dấu móc đơn :
q .= e e e
Loại nhịp gồm phách chia 3 gọi là loại nhịp chia 3 (tam phân) hoặc loại nhịp kép.
9. Các nhóm dấu bất thường :
9.1. Liên ba : Là 3 dấu nhạc có trường độ bằng nhau, nhưng khi diễn tấu thì trường độ của chúng bằng trường độ 2 dấu nhạc cùng hình dạng.
9.2. Liên năm, liên sáu, liên bảy : Là diễn tấu 5, 6 hoặc 7 dấu thay vì chỉ phải diễn tấu 4 dấu cùng hình dạng.
9.3. Liên hai : là 2 dấu nhạc có trường độ bằng nhau nhưng được diễn tấu trong thời gian bằng 3 dấu cùng hình dạng.
Nói cách khác là dấu nhạc có chấm (loại phách chia 3) thay vì được chia 3 như thường lệ thì chỉ được chia 2 thôi.
9.4. Liên tư : Là diễn tấu 4 dấu thay vì cần diễn 6 dấu cùng hình dạng.
10. Các ký hiệu dùng để lặp lại :
10.1. Lặp lại một âm hình giai điệu nào đó trong cùng một ô nhịp, thay vì viết ra cả thì chỉ cần viết 1 lần rồi ghi các vạch xiên chỉ trường độ.
10.2. Một âm thanh hoặc một hợp âm cần nhắc lại thì ghi tổng số trường độ và thêm các gạch chỉ trường độ phải lặp lại :
10.3. Lặp lại luân phiên nhiều lần âm thanh hoặc hợp âm (trémolo)
10.4. Lặp lại nguyên 1 hoặc 2 ô nhịp :
10.5. Lặp lại một đoạn nhạc : dùng dấu hồi đoạn ] } (Td 18a)
10.6. Lặp lại một đoạn dài, hoặc cả bài : Dùng dấu hồi tống @ (Td 18b)
Khi phần cuối đoạn lặp lại có khác biệt với phần cuối đoạn đầu thì người ta ghi dấu ngoặc vuông với số 1 hoặc chữ a trên phần khác biệt của đoạn đầu, và ghi dấu ngoặc vuông với số 2 hoặc chư b trên phần cuối của đoạn lặp lại.
Lần đầu diễn theo số một (còn gọi là volta 1) cho đến dấu hồi tống thì lặp lại lần 2, bỏ volta 1, nhảy qua volta 2.
Người ta có thể thay dấu hồi tống bằng chữ DC (Da Capo nghĩa là trở lại từ đầu. Da Capo al fine = Trở lại từ đầu cho đến chỗ TẬN của bài).
Bài nhạc nào có đoạn kết riêng, gọi là CODA thì người ta ghi dấu A hoặc để báo hiệu chỗ phải sang đoạn kết. Dấu báo kết A … được ghi 2 lần, lần đầu thường kèm theo chữ Al Coda (sang đoạn kết), lần hai ghi ngay đầu đoạn kết với chữ CODA. (Td 19c)
Quãng nhạcTRƯỜNG ĐỘ TUYỆT ĐỐI:
Muốn biết một âm thanh phải kéo dài bao nhiêu giây, người ta phải dùng tới những ký hiệu khác để diễn tả tốc độ của các âm thanh, còn gọi là nhịp độ của âm thanh (Tempo).
1. Ký hiệu ghi nhịp độ đều đặn : các chữ ghi nhịp độ thường cho ta 3 mức độ chính, đó là vừa, chậm và nhanh. Muốn chính xác hơn, người ta ghi thêm số phách hoặc số dấu nhạc phải diễn tấu trong một phút gọi tắt là số nhịp đoä.
1.1. CHỮ VIẾT / Ý NGHĨA / SỐ NHỊP ĐỘ
Nhịp độ chậm:
Largo / Chậm rãi / 40-60
Larghetto / Bớt chậm rãi / 60-66
Lento / Chậm
Adagio / Chậm / 66-76
Grave / Trịnh trọng
Nhịp độ vừa:
Andante / Khoan thai / 76
Andatino / Bớt khoan thai / 108
Moderato / Vừa / 108-120
Allegro Moderato / Nhanh vừa / 120
Allegretto / Chưa nhanh lắm
Nhịp độ nhanh:
Allegro / Nhanh / 120-168
Vivace / Khá nhanh
Presto / Hối hả, rất nhanh / 168
Prestissimo / Cực nhanh / 208
1.2. Người ta còn thêm các chữ để nói rõ sắc thái hơn như :
Molto : Rất
Assai : Rất
Non troppo : Không quá
Non Tanto : Không đến thế
Sempre : Luôn luôn (Sempre marcato : Luôn luôn rời mạnh)
Meno : Ít hơn (Meno mosso : Kém linh hoạt hơn)
Pìu : Hơn (Pìu andante : nhanh hơn Andante)
Poco : Ít, một chút (Poco a poco : Từ từ)
Quasi : Gần như.
2. Ký hiệu ghi nhịp độ thay đổi :
2.1. Tăng nhịp độ :
Accelerando (Accel.) : Nhanh dần lên
Animando : Linh động, hào hứng
Stretto : Dồn dập, gấp rút
2.2. Giảm nhịp độ :
Ritardando (Ritard.) : Chậm lại
Rallentando (Rall.) : Chậm dần
Allargando (Allarg.) : Mở rộng ra, giãn ra.
Ritenuto (Rit.) : Giữ lại, ghìm lại
Poco lento : Hơi chậm.
2.3. Nhịp độ tư do :
Ad libitum (ad lib.) : Nhịp độ tuỳ ý
A piacere : Tuỳ thích
Senza tempo : Không cần giữ nhịp
Rubato : Lơi nhịp
2.4. Vào nhịp độ bắt buộc :
Tempo : Vào nhịp (sau một đoạn nhạc ad lib.)
A tempo, Tempo primo : Trở về nhịp độ ban đầu
(AT), (1 Tempo)
L'istesso tempo : Giữ y nhịp độ cũ dù có thay đổi số nhịp, nghĩa là một phách ở loại nhịp trước vẫn bằng 1 phách ở loại nhịp sau.
Thí dụ 2/4 đổi qua 6/8 thì q trong 2/4 =q . trong 6/8Ký hiệu ghi cường độ
1. Các chữ dùng để ghi cường độ thường dùng là:
Pianissimo..........(pp)......: Rất nhẹ
Piano.................(p).......: Nhẹ
Mezzo-Forte.......(mf)......: Mạnh vừa
Forte.................(f)........: Mạnh
Fortissimo...........(ff).......: Rất mạnh
Có khi người ta còn dùng ppp để chỉ cực nhẹ và fff để chỉ cực mạnh
2. Các chữ hoặc ký hiệu dùng để báo hiệu thay đổi cường:
Crescendo........(Cresc.).....: Mạnh dần lên
Decrescendo.....(decresc.)..: Nhẹ dần lại
Diminuendo.......(dim.)........: Bớt lại
Morendo..........(mor.).........: Lịm dần (thường dùng cuối đoạn, cuối bài)
Smorzando ......(Smor.).......: Tắt dần
Subito forte .....(Sf.) ..........: Mạnh đột ngột
Sforzando .......(Sfz.)..........: Nhấn buông, nhấn mạnh rồi nhẹ ngay (fp)
Marcato ..........(>) ............: Mạnh mà rời
Staccato ....(dấu chấm trên dấu nhạc): Nhẹ mà rời
Sostenuto (gạch ngang trên dấu nhạc): Cẩn trọng, nâng niu (pfp)
Sotto voce : Hát nửa tiếng, êm nhẹ
Dolce : Dịu dàng, nhẹ nhàng
Ngoài ra, để chỉ phải liên kết các dấu nhạc mạnh dần hoặc nhẹ dần một cách liên tục, không rời rạc, người ta dùng chữ Legato (liền tiếng, liền giọng).
3.Phân loại cường độ:
Có 2 cách phân định cường độ
3.1.Cường độ cố định: là cường độ được qui định trước theo nguyên tắc "Phách đầu mạnh,phách cuối nhẹ", mà không cần để ý đến giai điệu cũng như ý nghĩa của nó.
Cụ thể -trong loại nhịp 2 phách: phách 1 mạnh, phách 2 nhẹ ( Mạnh, nhẹ....)
-trong loại nhịp 3 phách: phách 1 mạnh, phách 2 vừa, phách 3 nhẹ ( Mạnh, Mạnh vừa, nhẹ);
-trong loại nhịp 4 phách: phách 1 mạnh, phách 2 vừa, phách 3 mạnh vừa, phách 4 nhẹ. Loại cường độ nầy thường dùng cho nhạc vũ đạo, quân hành, sinh hoạt, có tính cách bình dân đaị chúng, hoặc dùng cho người mới học nhạc để tập luyện giữ đúng nhịp. Nó có tính cách máy móc vì không để ý đến ý nghĩa của bài nhạc.
3.2.Cường độ diễn cảm: là cường độ do tiết tấu hoặc do ý nghĩa lời ca gợi ý. Chính loại cường độ nầy mới tạo "hồn" cho âm nhạc. Cần học phân tích tiết tấu thì mới biết phân phối cường độ sao cho phù hợp với từng dấu nhạc, từng nét, từng vế, từng câu, từng đoạn, từng bài nhạc.
4. Khi tác giả ghi các ký hiệu về cường độ thì đó cũng chỉ mới là hướng dẫn sơ khởi cho từng chỗ, từng đầu câu mà thôi, chứ không thể ghi chi tiết cường độ của tất cả mọi dấu nhạc trong câu trong bài được. Dù ghi hay không ghi ký hiệu cường độ, chúng ta cũng phải dựa trên tiết tấu của từng câu, từng đoạn và dựa trên ý nghĩa lời ca để phân phối cường độ cho xứng hợp, vì cường độ là yếu tố chủ chốt làm cho bài nhạc có hồn, có sinh khí. Người ca hát có hồn, có tâm tình là người biết dùng cường độ đúng lúc, đúng nơi. Chúng ta không nên dùng cách diễn tấu máy móc của các loại nhạc vũ,nhạc quân hành, nhạc sinh hoạt để diễn tấu các loại nhạc khác, đòi hỏi mức thưởng ngoạn cao hơn.
Quãng là gì?
Quãng là khoảng cách giữa hai nốt nhạc. Ðể xác định một quãng ta phải biết được kích cỡ số học và chất lượng của nó.
Kích cỡ số học của quãng
Bằng cách tính toán số lượng nốt nhạc trong một quãng mà chúng ta có thể xác định được kích cỡ số học của nó. Khi tính toán phải bao gồm cả nốt đầu tiên và nốt kết thúc. Ví dụ từ Ðô tới Mi chúng ta có một quãng 3 (C-1, D-2, E-3). Trong phần kế tiếp bạn sẽ biết được mối quan hệ giữa số nốt và kích cỡ số học của quãng:
Tuy nhiên, không phải tất cả các quãng có cùng giá trị số học như nhau đều có kích cỡ giống nhau. Ðó là lý do tại sao chúng ta cần phải xác định chất lượng của quãng bằng cách xác định chính xác số cung và nửa cung trong quãng.
Cung và nửa cung
Trong hệ thống bình quân, quãng tám được chia chính xác thành 12 nốt. Khoảng cách giữa hai nốt kề nhau là nửa cung. Các phím bất kỳ trên bàn phím này đều cách nốt liền trước và liền sau nó nửa cung.
Một cung bao gồm hai nửa cung. tất cả các phím trắng được chen giữa bởi một phím đen đều cách nhau một cung. Những phím trắng không bị chia cách bởi phím đen thì cách nhau nửa cung:
Các nốt tương ứng tại các phím trắng được gọi là: Ðô, Rê, Mi, Fa, Sol, La và Si tương ứng C, D, E, F, G, A và B. Những nốt này được xem là những nốt nhạc tự nhiên (nốt bình). Chúng có thể được tăng lên nửa cung với dấu thăng và giảm nửa cung với dấu giáng. Một phím đen, ví dụ phím nằm giữa Ðô và Rê, có thể được xem là Ðô thăng hoặc Rê giảm:
Chất lượng quăng
Bằng cách sử dụng bàn phím để xác định số lượng nửa cung giữa các nốt chúng ta có thể thấy tuy rằng các quăng có cùng giá trị số học nhưng lại có số nửa cung khác nhau. Ví dụ, quăng 2 giữa Đô và Rê là một cung (tức hai nửa cung) trong khi quăng hai giữa Mi và Fa chỉ có một nửa cung:
Đối với các quăng khác cũng tương tự. Ví dụ, quăng 3 giữa Rê và Fa là một một cung rưỡi (tức 3 nửa cung) trong khi quăng 3 giữa Đô và Mi có tới 2 cung (tức 4 nửa cung):
Trên đây là lư do tại sao chúng ta phải xác định chất lượng của quăng. Hăy tham khảo từng quăng để biết thêm về chất lượng quăng.
Xác định quãng bằng cách đảo quãng
Cách dễ dàng nhất để xác định quãng 6 và quãng 7 là đảo quãng và phân tích kết quả các quãng 2 và quãng 3 tạo thành
Ví dụ, thay vì phải tính toán số lượng cung và nửa cung trong quãng 6 F# - D#, bạn có thể đảo quãng và phân tích quãng 3 tạo thành. Vì quãng 3 D#-F# là quãng 3 thứ nên quãng 6 F#-D# phải là quãng 6 trưởng.
Quãng E-Db là một quãng 7 giảm vì nó trở thành quãng 2 tăng sau khi đảo quãng
Nhạc lý cho người viết ca khúc 3
GAME - GIỌNG
Game ( âm giai,tông) là hệ thống gồm 7 bậc âm tự nhiên được sắp xếp liền bậc trong một quãng 8 (từ chủ âm đến chủ âm)
I – II – III – IV – V – VI – VII – (I )
I.GAME TRƯỞNG - GIỌNG TRƯỞNG
1.Game trưởng:
Game trưởng là hệ thống gồm 7 bậc âm tự nhiên được sắp xếp liền bậc, hình thành dựa trên công thức cung và nửa cung như sau:
Ví dụ game Đô trưởng:
Âm ổn định nhất trong game gọi là âm chủ (bậc I)
Trong game Đô trưởng, âm chủ là Đô
2.Giọng trưởng:
Các bậc âm trong game trưởng dùng để xây dựng giai điệu một bài hát, một bản nhạc thì được gọi là giọng trưởng kèm theo tên âm chủ.
Ví dụ bài Thật là hay của Hoàng Lân, được xây dựng trên công thức gam trưởng, gồm các âm: Đô, Rê, Mi, Pha, Son, La, Si.
II.GAM THỨ - GIỌNG THỨ:
1.Game thứ:
Là hệ thống gồm 7 bậc âm được sắp xếp liền bậc, hình thành trên công thức cung và nửa cung như sau:
Ví dụ: Game La thứ:
Đoạn bài hát sau được viết ở game La thứ:
Trong trường hợp này, sử dụng từ Game hay Giọng đều được!
Bài tập đọc nốt nhạc và xướng âm.
Các bạn sẽ cảm thấy thích thú vô cùng khi tập luyện bài xướng âm nầy, bài viết với nhịp 3/4 ( trong mỗi ô nhịp có giá trị là 3 nốt đen, mỗi nốt đen ta giữ 1 phách). trong bài nầy các bạn được ôn tập các quãng 2,3,4,5......)
Nhạc lý cho người viết ca khúc 2
Bài tập đọc nốt nhạc và xướng âm.
Các bạn chịu khó viết lại ra vở của mình sẽ giúp các bạn làm quen rất nhanh với hình nốt và vị trí của các nốt nhạc.
PHÁCH
Trong mỗi nhịp (ô nhịp hay nhịp trường canh) lại chia ra nhiều quãng thời gian đều nhau nhỏ hơn gọi là phách.
Mỗi nhịp đều có phách mạnh, phách nhẹ. Phách mạnh bao giờ cũng nằm ở đầu ô nhịp. Nhờ có phách mạnh, phách nhẹ ta mới phân biệt được các loại nhịp khác nhau.
Số lượng phách trong mỗi ô nhịp tuỳ thuộc vào số chỉ nhịp.
Phách có thể chia ra làm nhiều phần nhỏ hơn một nốt nhạc hoặc có thể có nhiều phách trong một hình nốt nhạc.
Ví dụ:
Trong nhịp 4/4, một phách có thể bằng một hình nốt đen hoặc 2 hình nốt đơn hoặc 4 hình nốt móc kép…; một hình nốt tròn có 4 phách, một hình nốt trắng có 2 phách… (cụ thể sẽ nói rõ hơn trong phần Số chỉ nhịp)
SỐ CHỈ NHỊP
Số chỉ nhịp ghi đầu bản nhạc, sau khoá nhạc và chỉ ghi một lần ở khuông nhạc đầu tiên (trừ trường hợp có sự thay đổi nhịp)
Số chỉ nhịp trông giống như một phân số
-Số ở trên biểu thị số phách có trong mỗi ô nhịp.
-Số ở dưới biểu thị độ dài của mỗi phách là bao nhiêu (tương ứng với hình nốt nào)
*Một số loại nhịp thông dụng:
-Nhịp 2/4:
Nhịp 2/4 trong mỗi ô nhịp có 2 phách, mỗi phách có độ dài bằng 1 hình nốt đen (mỗi ô nhịp có hai hình nốt đen)
-Nhịp 3/4:
Nhịp 3/4 trong mỗi ô nhịp có 3 phách, mỗi phách có độ dài thời gian bằng một hình nốt đen(mỗi nhịp có 3 hình nốt đen…)
-Nhịp 3/8:
Nhịp 3/8 trong mỗi ô nhịp có 3 phách, mỗi phách bằng 1 hình nốt móc đơn. (mỗi nhịp có 3 hình nốt móc đơn)
-Nhịp 6/8:
Nhịp 6/8 trong mỗi ô nhịp có 6 phách, mỗi phách bằng 1 nốt móc đơn. (mỗi nhịp có 6 hình nốt móc đơn)
*Những nhịp có số bên dưới là 4: độ dài của phách là nốt đen.
*Những nhịp có số bên dưới là 8: độ dài của phách là nốt móc đơn.
DẤU LẶNG
Trong khi trình bày một bài hát, bản nhạc, có những lúc ta phải ngưng nghỉ. Thời gian ngưng nghỉ đó có các dấu hiệu để ghi lại, các dấu hiệu đó gọi là dấu lặng.
Ứng với các hình nốt chỉ độ dài thời gian vang lên của âm thanh, có các dấu lặng để chỉ thời gian ngưng nghỉ như sau:
Dấu lặng tròn thời gian ngưng nghỉ bằng 1 nốt tròn
Dấu lặng trắng thời gian ngưng nghỉ bằng 1 nốt trắng
Dấu lặng đen thời gian ngưng nghỉ bằng 1 nốt đen
Dấu lặng đơn thời gian ngưng nghỉ bằng 1 nốt đơn
Dấu lặng kép thời gian ngưng nghỉ bằng 1 nốt móc kép
Những dấu lặng có độ dài ngắn hơn ít dùng trong ca khúc.
DẤU NỐI - DẤU LUYẾN
DẤU CHẤM DÔI-DẤU CHẤM NGÂN
DẤU CHẤM DÔI-DẤU CHẤM NGÂN
Dấu nối, dấu chấm dôi, dấu chấm ngân là những kí hiệu bổ sung để tăng thêm độ dài của âm thanh.
1.Dấu nối thường được sử dụng khi tăng thêm độ dài của nốt nhạc cùng tên nhau.
2.Dấu luyến là kí hiệu dùng để nối cao độ của các nốt nhạc khác tên nhau. Hay nói cách khác, muốn thể hiện một tiếng hát ở hai nốt nhạc khác nhau người ta dùng dấu luyến.
3.Dấu chấm dôi là kí hiệu tăng độ dài của nốt nhạc trong cùng một ô nhịp mà tổng độ dài của các nốt nhạc trong ô nhịp không vượt quá số phách quy định trong ô nhịp được ghi ở số chỉ nhịp. Dấu chấm dôi là một chấm nhỏ nằm ở bên phải nốt nhạc và có giá trị tăng thêm 1/2 độ dài của chính nốt đó.
4.Dấu chấm ngân là kí hiệu ghi ở trên nốt nhạc, khi gặp dấu này, người hát hoặc người đàn có thể xử lí tự do.
CUNG, QUÃNG
1.Cung:
Trong 7 tên nốt, khoảng cách cao độ của chúng không đồng đều nhau, có khoảng cách 1 cung, có khoảng cách nửa cung. Các khoảng cách cao độ được ghi như sau:
*Do ảnh hưởng của dấu hoá nên có 2 loại nửa cung như sau:
a) Nửa cung Diatonic (nửa cung dị):
Là tên gọi nửa cung của 2 nốt nhạc khác tên nhau. Nửa cung Diatonic được tạo ra giữa 2 bậc liền kề nhau của hàng âm.
Ví dụ:
b) Nửa cung Crômatic (nửa cung đồng):
Là tên gọi nửa cung của 2 nốt nhạc cùng tên nhau. Nửa cung Crômatic được tạo ra trong một bậc cơ bản với sự nâng cao hoặc hạ thấp chính nó.
VD:
2.Quãng :
Quãng là sự liên kết giữa hai hoặc nhiều âm thanh phát ra cùng một lúc (hay phát ra lần lượt). Nốt thấp nhất của quãng gọi là nốt nền, nốt cao của quãng gọi là nốt đỉnh.
Tóm lại : Khoảng cách cao độ giữa hai nốt nhạc được gọi là quãng.
Ví dụ : Nốt Son và nốt La có khoảng cách là quãng 2, nốt Đô với nốt Đô là quãng 1, nốt Rê với nốt Pha là quãng 3...
Có hai loại quãng là quãng giai điệu và quãng hoà thanh
-Quãng giai điệu là quãng mà các nốt nhạc phát ra lần lượt nốt nọ đến nốt kia.
-Quãng hoà thanh là quãng mà các nốt nhạc phát ra đồng thời cùng một lúc.
Bài Tập Xướng âm
2 bài trên các bạn đã tập làm quen với hình nốt, với quãng 2,quãng 3, quãng 4.
Bây giờ mời các bạn tập với nét nhạc quãng 5.
Các bạn chịu khó đọc nhuần nhuyễn sẽ rất hữu ích cho các bạn về sau và sẽ thấy vô cùng thu vịDẤU NHẮC LẠI – DẤU HỒI TẤU
KHUNG THAY ĐỔI
1.DẤU NHẮC LẠI:
Khi có thêm yêu cầu phải diễn lại một phần hoặc toàn bài nhạc, người ta dùng thêm dấu hồi tấu. Dấu hồi tấu được ghi 2 lần.
-
2.KHUNG THAY ĐỔI:
Khi sử dụng dấu nhắc lại, ở lần 2, nếu có sự thay đổi ở những ô nhịp cuối cùng người ta dùng khung thay đổi.
Lần 1: trình diễn bình thường
Lần 2: đến những ô nhịp trong vùng ảnh hưởng của khung thay đổi 1 ta phải bỏ qua không trình diễn, mà trình diễn qua những ô nhịp trong vùng ảnh hưởng của khung thay đổi 2 trở về sau.
-
3.DẤU HỒI TẤU:
Khi có thêm yêu cầu phải diễn lại một phần hoặc toàn bài nhạc, người ta dùng thêm dấu hồi tấu. Dấu hồi tấu được ghi 2 lần.
-
4.DẤU CO-ĐA:
Khi trình bày lần thứ hai, nếu có yêu cầu phải bỏ bớt phần nào đó người ta dùng dấu Cô-đa. Dấu cô-đa cũng được ghi 2 lần.-
HƯỚNG DẪN CÁCH XỬ LÍ KHI GẶP CÁC KÍ HIỆU
1.Kí hiệu dấu nhắc lại không có khung thay đổi:
-
Thứ tự trình diễn như sau:1-2-3-4-5-6-3-4-5-6-7-8.
2.Kí hiệu dấu nhắc lại có khung thay đổi:
-
Thứ tự trình diễn như sau: 1-2-3-4-5-6-3-4-5-7-8.
3.Kí hiệu dấu hồi tấu không có dấu cô-đa:
-
Thứ tự trình diễn như sau: 1-2-3-4-5-6-3-4-5-7-8-1-2-3-4-5-6-3-4-5-7-8.
4.Kí hiệu dấu hồi tấu có dấu cô-đa:
-
Thứ tự trình diễn như sau: 1-2-3-4-5-6-3-4-5-7-8-1-2-3-7-8.
NHỊP LẤY ĐÀ
Một ô nhịp thông thường thì số lượng phách được qui định bởi số chỉ nhịp (không được ít hơn hoặc nhiều hơn)
Ví dụ:
Nhịp 2/4: mỗi nhịp (ô nhịp) có 2 phách ứng với 2 hình nốt đen;
Nhịp 3/4: mỗi nhịp (ô nhịp) có 3 phách ứng với 3 hình nốt đen;
Nhịp 6/8: mỗi nhịp (ô nhịp) có 6 phách ứng với 6 hình nốt móc đơn;
...
Tuy nhiên có khi ở ô nhịp đầu, do chủ ý của tác giả, bản nhạc được bắt đầu từ một phách yếu, ô nhịp đó không đủ số phách theo qui định. Ô nhịp đó gọi là nhịp lấy đà.
Nhận xét
Đăng nhận xét